logo

Thân bài Rừng Xà nu

Tổng hợp các dạng Thân bài Rừng Xà nu ngắn gọn, hay nhất. Hướng dẫn Cách viết thân bài cho các đề bài khác nhau trong tác phẩm Rừng Xà nu.


THÂN BÀI PHÂN TÍCH TÁC PHẨM RỪNG XÀ NU

      Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh những “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Xà nu là loại cây thuộc họ thông, mọc rất nhiều ở vùng Tây Nguyên. Nó thường mọc thành rừng rộng lớn và là đặc trưng riêng của mảnh đất anh dũng này. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bao xung quanh, che chở cho buôn làng tránh những trận đại bác của quân địch. Sự khốc liệt của chiến tranh đã khiến “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.

      Đây là loài cây gắn bó mật thiết như một người bạn đồng hành với dân làng. Cuộc sống của họ từ khi sinh ra, lớn lên và khi về với đất mẹ cũng đều gắn liền với cây xà nu. Dưới tán xà nu là những hoạt động sinh hoạt của cộng đồng, là những buổi hò hẹn của tình yêu đôi lứa.

      Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm nổi dậy chống kẻ thù của dân làng Xô Man và khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Tnú và Mai học bài đã chứng tỏ công dụng, vai trò to lớn của cây xà nu đối với người dân Tây Nguyên. Lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” để thể hiện sức mạnh, ý chí kiên cường cùng lòng dũng cảm của buôn làng Xô Man.

      Không chỉ mang ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những con người Tây Nguyên. Rừng xà nu phải gánh chịu biết bao trận đại bác của địch khiến chúng “đổ ào ào như một trận bão” khi “bị chặt đứt ngang nửa thân mình”.

      Những vết thương đó không lành được mà “cứ loét mãi ra” gợi cho chúng ta thấy được bao đau thương, mất mát mà nhân dân nơi đây phải gánh chịu. Nhưng đạn bom của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, nảy nở của cây xà nu: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”.

      Vì thế mà “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh ấy là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt của những thế hệ người con Tây Nguyên. Thế hệ trước ngã xuống đã có thế hệ sau đứng lên tiếp nối. Đây còn là loài cây ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Điều đó cũng giống như việc Tnú và dân làng Xô Man đi theo ánh sáng của cách mạng.

      Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Ông đã sử dụng cái nhìn điện ảnh để tái hiện lại khung cảnh một cách sinh động. Có khi ông nhìn từ xa để thấy toàn bộ những cánh rừng xà nu, khi thì sát lại gần để thấy cận cảnh những cây xà nu con đang vươn lên một cách đầy kiêu hùng. Nó không phải là một loài cây bình thường mà là loài cây mang dáng dấp anh hùng của con người Tây Nguyên.

      Đại diện tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ kiên cường, bất khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã cầm một hòn đá rồi tự đập vào đầu mình. Nhờ có anh Quyết khuyên nhủ: “Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” nên Tnú quyết tâm học chữ.

      Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn vì có giặc vây bắt, anh “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Sự nhanh trí của anh còn được thể hiện qua hành động “nuốt luôn cái thư” khi bị địch bắt. Anh thật hiên ngang trả lời câu hỏi cán bộ ở đâu của địch bằng cách để tay lên bụng và nói “Ở đây này”.

      Lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã tìm cách để bắt Tnú. Nó bắt Mai và con trai Tnú nhằm mục đích: “Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về”. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai vì trong tay anh không có vũ khí. Anh bị bọn thằng Dục bắt và tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay rồi đốt. Nỗi đau mất vợ và đứa con trai đầu lòng cùng nỗi đau về thể xác dường như quyện hòa vào nhau trở thành nỗi căm hờn, uất hận.

      Nhưng Tnú “không kêu lên một tiếng nào” mà “trợn mắt nhìn thằng Dục”. Dường như, ý chí và tinh thần quật cường đã khiến: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà anh còn là con người sâu nặng nghĩa tình. Tnú là một người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.

      Phải chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc tra tấn, anh “đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”, “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh lao ra cứu mẹ con Mai mà không sợ hiểm nguy. Anh đã quên đi cả sinh mạng của mình để cứu lấy vợ con, cứu lấy những người anh yêu thương nhất.

      Tnú lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng nên anh yêu quê hương sâu nặng. Khi được nghỉ phép, anh đã về thăm làng, “xúc động để vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước”. Anh yêu tha thiết quê hương mình, yêu cả tiếng giã gạo của buôn làng thổn thức trong lòng anh bao nhiêu năm nay. Nếu không phải một người gắn bó sâu nặng với quê hương thì Tnú sẽ không có những cảm nhận tinh tế đến như vậy.

      Bên cạnh nhân vật Tnú, nhà văn còn khắc họa các nhân vật anh Quyết, cụ Mết, Mai, Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống giặc. Anh Quyết là cán bộ cách mạng, là người đã dạy chữ cho Tnú và Mai. Đồng thời, anh cũng là người nhen nhóm tinh thần đấu tranh cho người dân Tây Nguyên. Anh giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ. Bằng những lời nói thủ thỉ, tâm tình, anh đã khơi dậy được lòng yêu nước, lòng quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng cách mạng của Tnú.

      Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người kể cho thanh niên trong làng nghe về cuộc đời của Tnú. Cụ Mết đã khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân phải đi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là một chân lí đúng đắn để nhân dân ta tin tưởng và làm theo. Nhân dân ta không thể chịu áp bức mãi được, vì vậy phải cầm giáo đứng lên đấu tranh cho chính nghĩa

      Những thế hệ nối tiếp con dường của cụ Mết, Tnú là Dít và Heng. Dít lớn lên là chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ nhưng từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”. Bị giặc bắt, chúng bắn từng viên một “sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít” khiến “nó khóc thét lên” nhưng “đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt” và nhìn bọn giặc “bình thản lạ lùng”. Tuy chỉ là một cô bé nhưng Dít đã có bản lĩnh, nghị lực phi thường, không run sợ trước súng đạn kẻ địch.

      Ngay cả cậu bé Heng, ngày Tnú ra đi “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy” thì khi Tnú trở về thăm làng cậu bé ấy đã “mang một khẩu súng trường Mát” ra vẻ một người lính thực sự.

      Heng dẫn Tnú đi qua các con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gẫy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Chú bé ấy dũng cảm ấy đã góp phần tạo nên một tập thể anh hùng trong những ngày chống đế quốc Mĩ ác liệt của dân làng Tây Nguyên.


THÂN BÀI PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH ĐÔI BÀN TAY TNÚ TRONG TRUYỆN RỪNG XÀ NU

      Rừng xà nu là một trong số những tác phẩm tiêu biểu, là bản anh hùng ca mang đậm tính lịnh sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ.

      Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là Tnú. Hình ảnh đôi bàn tay của Tnú mang đến những ấn tượng rất lớn trong lòng người đọc. Đặc biệt nó mang đậm ý đồ nghệ thuật mà tác giả muốn gửi gắm qua đó. Bằng ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình và khuynh hướng sử thi làm chủ đạo, nhân vật Tnú hiện ra với một góc nhìn vừa mới vừa đầy tính chất anh hùng của thời đại.

      Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra Tnú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc.

      Bàn tay Tnú cũng gợi ra tính cách và cuộc đời của con người Tây Nguyên này. Có những lúc anh phải chịu những đau khổ những đòn đau của địch. Bàn tay ấy cầm chông cầm giáo, bàn tay bao bọc vợ con dù phải hi sinh thân mình. Và đến cuối cùng bàn tay ấy cũng giết chết biết bao nhiêu kẻ thù để báo thù cho tất cả những đau thương mà nó cũng như chủ nhân nó phải chịu.

      Bàn tay ấy khi còn lành lặn thì cùng Mai học chữ trong rừng. Cùng với thời gian trôi qua thì bàn tay ấy đã nhanh nhẹn cầm những thứ liên lạc vượt qua mọi gian nan và những vòng vây của giặc để mang đến cho những người cán bộ trong rừng. Mặc dù là một người khi còn nhỏ nhưng đã mang những phẩm chất anh hùng một bàn tay nhỏ nhắn như vậy mà có thể cầm biết bao nhiêu đồ như vậy, quả thật rất đáng khen. Khi đôi bàn tay ấy cầm phấn học bài nhưng khi không học được thì cũng chính bàn tay ấy đã đập đầu khiến cho máu chảy ròng ròng. Bàn tay làm nổi bật lên hình ảnh người anh hùng Tây Nguyên. Bàn tay ấy còn mang một vẻ đẹp lớn đó là vẻ đẹp của sự gan dạ nữa: vạch rừng vượt thác để đem thư mật đến cho những người cộng sản. Và ngay cả khi bị bắt thì đôi bàn tay ấy cũng không ngần ngại mà chỉ thẳng vào bụng mà nói “cộng sản ở đây này”. Qua những lời lẽ của anh thì ta cũng thấy được Tnú là người gan góc tới như thế nào. Có thể nói vẻ đẹp của Tnú qua đôi bàn tay lại được hiện lên.

      Bàn tay anh là một bàn tay dịu dàng ấm áp dắt Mai đi đến những hạnh phúc và yêu thương, cầm tay Mai hẹn hò bên những gốc cây vả. Bàn tay ấy còn rứt đứt hàng chục trái vả thể hiện sự căm thù của quân giặc trong cái đêm mà mẹ con Mai bị tra tấn cho đến chết. Chứng kiến cảnh con bị đau đớn đôi bàn tay ấy như thể hiện cảm xúc thay cho chủ nhân của nó. Bất lực nhưng không thể làm điều gì nỗi đau ấy ai thấu. Mẹ con Mai ngã xuống chính bàn tay ấy cũng là cánh tay đỡ lấy vợ con mình. Lúc này bàn tay anh là bàn tay ngập tràn yêu thương.

      Chi tiết đặc sắc nhất là khi bị bọn giặc bắt chúng bó giẻ vào bàn tay ấy tẩm nhựa xà nu mà đốt cháy. Mười đầu ngón tay Tnú bốc lên như mười ngọn đuốc. Nhưng anh không kêu thán một lời nào mà cắn răng chịu đựng, nó đẹp bởi vì nó chịu nhiều thương đau nhưng nó không bao giờ là bàn tay chết cả. Bàn tay ấy sau này vẫn cầm chắc tay súng và giết chết biết bao nhiêu quân giặc.


THÂN BÀI PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TNÚ TRONG TRUYỆN NGẮN RỪNG XÀ NU CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH

      Tnú là một nhân vật điển hình trong văn học, một  nhân vật điển hình thường được nhà văn xây dựng trong một hoàn cảnh điển hình. Hoàn cảnh chính là môi trường để nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Ở đây là buôn làng Xô Man trong những ngày đầu thử thách.

      Đọc câu chuyện này, người đọc ấn tượng đầu tiên ở nhân vật Tnú là đức tính trung thực, gan góc, dũng cảm. Tính cách của nhân vật Tnú phát triển nhất quán trong cuộc đời anh. Nó được bộc lộ ngay từ khi Tnú còn nhỏ, đi làm liên lạc, Tnú và Mai được anh Quyết dạy cho cái chữ, học chữ thua Mai, Tnú đã đập bảng, lấy đá ghì vào đầu mình đến chảy cả máu. Chi tiết này cho thấy Tnú là con người trung thực với chính lòng mình.

      Đặc biệt sự gan góc dũng cảm của anh được bộc lộ khi Tnú đối mặt với kẻ thù khi Tnú bị giặc bắt và tra tấn vô cùng dã man. Chúng đã hỏi Tnú “Cộng sản ở đâu?” liền với câu hỏi đó, Tnú chỉ tay vào bụng mình trả lời đầy khí phách “Cộng sản ở đây này!”. Chúng ta biết rằng, đằng sau câu trả lời ấy thì lưng anh đã dọc ngang vết chém của kẻ thù.

      Nhưng ấn tượng hơn cả ở, nhân vật này là đôi bàn tay của anh. Văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ, khi xây dựng hình tượng anh hùng trong cả một tập thể anh hùng, các nhà văn thường bị ám ảnh bởi một số những chi tiết mang được phẩm chất của nhân vật ấy. Ai đã từng đọc tiểu thuyết Hòn đất của nhà văn Anh Đức. Dễ nhận thấy ở đó nhà văn đã mô tả rất sắc nét mái tóc của chị Sứ – mái tóc ấy như linh hồn của chị.

      Nguyễn Trung Thành lại bị ám ảnh bởi đôi bàn tay của Tnú, đôi bàn tay của anh là đôi bàn tay mang được  tính cách nhân vật. Đôi bàn tay ấy khi chưa bị giặc tra tấn thì đó là đôi bàn tay tình nghĩa. Đôi bàn tay ấy đã từng lấy đá đập vào đầu mình, từng trừng phạt mình khi hịc cái chữ hay quên. Đôi bàn tay ấy đã từng làm cho Mai xúc động khi Tnú bỏ trốn khỏi ngục Kon Tum trở về, chị ra đón anh tận đầu làng, cầm đôi bàn tay của anh mà giàn giụa nước mắt.

      Đôi bàn tay ấy bị giặc tra tấn, tẩm nhựa xà nu đốt. Mười ngón tay ấy trở thành mười ngọn lửa, mười ngọn lửa ấy cộng hưởng lại với nhau để châm bùng lên ngọn lửa đồng khởi của nhân dân miền Nam chống lại cuộc chiến tranh đơn phương  Mĩ.

      Đọc câu chuyện này, người đọc dễ dàng nhận thấy ở Tnú có tính kỉ luật cao, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Điều này được thể hiện khi anh bị đốt mười đầu ngón tay. Lửa xà nu đã đốt cháy cả hệ thần kinh của anh, chảy cả ruột gan anh nhưng Tnú không thấy lửa ở mười ngón tay mà anh chỉ thấy lửa cháy trong bụng mình, trong ngực mình.

      Điều đó chứng tỏ ngọn lửa ấy đã bước qua giới hạn không gian trở thành ngọn lửa căm thù hừng hực trong lòng anh, máu anh mặn chát cả đầu lưỡi anh, răng anh cắn nát môi anh, rồi trong hoàn cảnh đó, Tnú không hề hế răng kêu nửa lời, Tnú luôn tâm niệm lời dạy của Đảng, lời dạy của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Là một người luôn mang trong mình lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng nên Tnú luôn tin tưởng vững chắc vào sự thắng lợi của cách mạng.

      Tình yêu thương cũng như lòng căm giận của Tnú mang đậm tính cách của người Tây Nguyên. Hiện lên trong câu chuyện, Tnú là người sống rất nghĩa tình. Anh có lòng yêu thương sâu sắc đối với gia đình và quê hương của mình. Khi còn nhỏ, Tnú là người bạn tốt của Mai, khi trưởng thành anh là người yêu chung thủy của Mai rồi cũng là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Khi giặc đánh đập, tra tấn mẹ con Mai một cách dã man, Tnú đã xông vào cứu mà trong tay không hề có một thứ vũ khí nào. Động lực nào đã làm nên sức mạnh hùng thiêng ở Tnú để anh xông xào kẻ thù bất chấp mọi hiểm nguy?

      Sẽ là gì nếu không phải động lực ấy được khơi lên từ một trái tim rực lửa yêu thương cháy lửa căm thù. Tnú là một tấm gương để cụ Mết giáo dục cho thế hệ trẻ ở buôn làng Xô Man. Lòng căm thù giặc sâu sắc ở nhân vật Tnú được gợi lên mạnh mẽ sâu sắc bởi Tnú mang trong mình ba mối thù lớn đối với giặc. Đó là mối thù bản thân anh, mối thù gia đình anh và mối thù của buôn làng anh.

      Dọc lưng anh đều ngang dọc những dao chém của kẻ thù, mười đầu ngón tay bị giặc thiêu cháy một đốt, đó là mối thù cá nhân anh, đó là chứng tích của lòng căm thù giặc cao độ mà Tnú mang trong mình suốt đời. Vợ con anh bị giết một cách thảm khốc dưới cây gọng sắt của kẻ thù. Đó là mối thù gia đinh mà anh quyết không đội trời chung.

      Những người dân làng Xô Man bị kẻ thù giết hại, những cánh rừng xà nu bị đạn bom tàn phá, mảnh đất quê hương anh bị bom đạn cầy xới, băm vằm. Đó là mối thù của buôn làng mà suốt cuộc đời Tnú không bao giờ nguôi ngoai. Mang trong mình ba mốt thù lớn ấy với đôi bàn tay bị đốt ngón trỏ chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn quyết tâm đi tìm giặc để trả thù. Với Tnú đã là thằng giặc thì thằng nào cũng là thằng Dục cả.

      Vì vậy, ở cuối câu chuyện với bàn tay cụt đốt, Tnú vẫn bóp chết tên chỉ huy ngay trong hầm cố thủ của hắn với một điều tâm niệm: “Đó là thằng Dục”. Chi tiết nghệ thuật này vừa thể hiện lòng yêu nước, căm thù giặc mang tính cách dân tộc, lại vừa khẳng định chân lí ác giả ác báo. Kẻ thù gây ra tội ác thì chúng phải chết bằng chính cái chứng tích đó.

      Dân làng Xô Man có biết bao nhiêu người, bao nhiêu số phận, gia đình phải gánh chịu đau thương của chiến tranh như Tnú. Đọc truyện ngắn chúng ta nhận thấy có những người bị kẻ thù tàn sát treo cổ trên cây và đầu làng thậm chí có những kẻ người bị kẻ thù chặt đầu, cột tóc trên đầu súng. Nhưng bi kịch của Tnú vẫn  mang ý nghĩa điển hình, Tnú mang trong mình ba mối thù lớn sâu sắc với giặc, anh đã lao vào đánh giặc không hề tính toán không hề có vũ khí trong tay. Do vậy, Tnú thất bại nặng nề. Từ sự thật đó, Nguyễn Trung Thành đã đưa ra một chân lý của thời đại chống Mĩ: nếu chỉ có lòng căm thù giặc thôi chưa đủ, thời đại chống Mĩ phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt lực lượng phản cách mạng.

      Bi kịch của Tnú khi không có vũ khí trong tay đã thất bại đau đớn trước kẻ thù hung bạo. Nhìn rộng ra, nó cũng là bi kịch của những người dân làng Xô Man khi chưa giác ngộ chân lý của Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà ngay phần đầu câu chuyện, Nguyễn Trung Thành đã viết về những đau thương trong chiến tranh. Cả cánh rừng xà nu không cây nào không bị thương tích. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” đó là lời cụ Mết khi đã giác ngộ ánh sáng của Đảng. Tnú cường tráng khỏe mạnh, vững vàng như một cây xà nu lớn. Chính trong lòng ngực anh là một sức mạnh mênh mang hoang dại của núi rừng Tây Nguyên. Tnú có thừa gan góc đến bướng bỉnh, thừa lòng kiêu hãnh đến dư lòng tự ác. Mặc dù cái ác hiện hình bằng mũi dao, mũi súng hay ngọn lửa, Tnú vẫn không hề khuất phục trước kẻ thù.

      Với tất cả sức mạnh về thể chất và tinh thần, Tnú đột phá giữ vòng vây kẻ thù. Nhưng trong tay không vũ khí nên bản thân cũng không cứu được vợ con cũng như những người dân làng Xô Man. Vợ con anh bị giết một cách thảm khốc. Bản thân anh bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay lại chính bằng ngọn lửa cháy từ nhựa xà nu. Điều này muốn nói lên rằng khi Tnú tay không đánh giặc thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết – cái khói chất thơm ngào ngạt như đọng nắng quê hương đó cũng trở thành ngọn lửa thiêu cháy đôi bàn tay vẫn chăm vun trồng, che chở cho rừng xà nu.

Bi kịch của Tnú cũng như bi kịch của những người dân làng Xô Man chỉ có thể giải thoát được khi họ đã “đồng khởi”, cầm vũ khí trong tay ào ạt xông lên chém gục kẻ thù. Dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung, khi cầm vũ khí đồng khởi thì không những cứu được cuộc đời của Tnú mà còn cứu được cả các buôn làng.

      Là một nhân vật được Nguyễn Trung Thành mô tả vô cùng sống động, cuộc đời của Tnú lúc còn nhỏ cho tới khi trưởng thành đã có sự phát triển về ý thức cách mạng. Con đường giác ngộ cách mạng của Tnú đi từ tự phát cá nhân dần dần đến đấu tranh cách mạng khởi nghĩa, rồi khởi nghĩa vũ trang. Đó cũng là con đường đi của cả buôn làng Xô Man, của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Con đường đúng đắn đó là con đường nào khác.

      Tnú là thành tựu xuất sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyên Trung Thanh khi xây dựng nhân vật Tnú, nhà văn đã kết hợp rất hài hòa giữa tính dân tộc và tính sử thi.

      Như đã nói, Tnú là một nhân vật điển hình, anh tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, tiêu biểu cho người Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Chất Tây Nguyên đã thấm đẫm vào nhân vật này từ ngôn ngữ cho đến hành động. Ngôn ngữ của Tnú thường ngắn gọn mộc mạc. Đó là ngôn ngữ đối thoại, nói sâu sắc như dao chém đá, chắc như đinh đóng cột. Hành động của Tnú kiên cường và mạnh mẽ. Từ dáng đứng của Tnú kiên quyết và mạnh mẽ. Từ dáng đi của Tnú cũng có khí thế ào ạt như núi thác cao nguyên.

      Nhưng đáng lưu ý hơn cả, toàn bộ tính cách của nhân vật Tnú đều tiêu biểu cho những tính cách con người Tây Nguyên trong những năm bom đạn. Tnú trung thực, gan góc, trung thành tuyệt đối với Đảng. Người Tây Nguyên cũng vậy. Trong chiến tranh, Tây Nguyên đói là thế, khát là thế, người Tây Nguyên chịu nhiều mưa bom đạn. Máu của họ đã đỏ thấm trên mảnh đất này. Nhưng người Tây Nguyên vẫn một lòng trung thành với Đảng.

      Cuộc đời của Tnú được kể lại qua lời cụ Mết trong sinh hoạt cộng đồng. Nó mang được tính truyền thống của người Tây Nguyên. Thông qua lời kể từ một già bản, nó làm cho nhân vật Tnú mang đậm sắc con người anh hùng dân tộc. Tnú là một tấm gương để cụ Mết giáo dục lớp trẻ buôn làng Xô Man.

      Tnú chính là một nhân vật bước ra từ trong sử thi. Nhân vật ấy bao giờ cũng phải tiêu biểu cho sức mạnh của lí tưởng, sức mạnh của cộng động thường mang một vẻ đẹp kì vĩ. Tnú là một kiểu nhân vật sử thi bởi vì sức mạnh của Tnú chính là sức mạnh của Tây Nguyên bất khuất. Rực cháy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của người Tây Nguyên có từ thời Đam Săn, Xinh Nhã….

      Khát vọng độc lập tự do của Tnú cũng chính là khát vọng tự do của đồng bào Tây Nguyên, dân tộc Việt Nam. Tnú có thể vững chãi như núi rừng Tây Nguyên. Trong sinh hoạt cùng với lời kể khan của đồng bào Tây Nguyên cho nên nội dung của câu chuyện này đã truyền tải được sự  kiện lịch sử mang tính sử thi.

      Cần phải khẳng định tính sử thi trong văn học miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ là một đặc điểm nỗi bật và xuyên suốt qua nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Từ Hòn Đất của Anh Đức đến Một truyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái cũng đều mang đậm tính sử thi.

      Cuộc đời bi tráng của Tnú hiện lên qua những lời kể khan bên bếp lửa bập bùng trong một đêm thiêng với giọng trầm hùng của một già bản càng làm tăng thêm chất sử thi của hình tượng nhân vật này. Đọc truyện ngắn Rừng xà nu ta có cảm giác nhân vật Tnú có phần nào giống anh hùng dũng sĩ trong các trường ca cổ Tây Nguyên.


THÂN BÀI PHÂN TÍCH TÍNH SỬ THI TRONG TRUYỆN RỪNG XÀ NU CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH 

      Cốt truyện Rừng xà nu kể về cuộc đời của Tnú và chuyện chiến đấu của làng Xô Man. Xung đột chính của truyện là xung đột giữa nhân dân cách mạng với kẻ thù Mỹ ngụy. Dưới sự kìm kẹp của bọn ác ôn, dân làng Xô Man sống trong những ngày đen tối, ngột ngạt, căng thẳng vì bị khủng bố: chúng treo cổ anh Xút, chặt đầu bà Nhan, đánh chết mẹ con Mai. Nỗi đau thương, lòng căm thù tích tụ dần thành ý chí chiến đấu bất khuất. Xung đột đã lên đến đỉnh điểm, cao trào nên đã bùng nổ thành cuộc chiến đấu dữ dội ở cuối truyện. Đó là đêm bọn giặc đánh mẹ con Mai cho đến chết, Tnú người – cán bộ chỉ huy du kích bị rơi vào tay giặc. Dưới sự chỉ đạo của cụ Mết, bằng vũ khí thô sơ, dân làng đã trỗi dậy. Ngòi bút sử thi miêu tả cuộc chiến đấu hào hùng với những hình ảnh kì vĩ: ngàn tiếng thét vang dữ dội, tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng rào rào, ánh rựa vung lên sáng loáng, tiếng chiêng trống vang lộng núi rừng. Đêm ấy cả làng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Bằng những chi tiết hoành tráng, nhịp văn nhanh, tác giả đã miêu tả khí thế thần tốc, dựng lên không khí cuộc chiến đấu: khẩn trương, náo nức, dữ dội, quyết liệt, ngời sáng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong thoáng chốc bọn giặc nằm ngổn ngang dưới lưỡi mác của dân làng. Dân làng đã vùng lên chiến đấu để giải phóng cuộc đời, chấm dứt thời kì đen tối mở ra cuộc chiến đấu trường kì, tự chủ.

      Đó là câu chuyện chiến đấu của dân làng Xô Man, một sự kiện lịch sử trọng đại liên quan đến vấn đề sống còn của cộng đồng được kể với giọng văn hào hứng. Chủ đề của cốt truyện này là vấn đề cốt yếu của lịch sử được kể lại với cảm hứng say mê ca ngợi nên mang đậm tính sử thi.

      Hòa nhập và tương ứng với tầm vóc của chủ nhân là bức tranh thiên nhiên rừng xà nu hùng vĩ mang vẻ đẹp sử thi.

      Hình tượng cây xà nu được miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Tác giả đã dành trọn phần mở đầu truyện để miêu tả rừng xà nu. Trong khu rừng từng luồng nắng trên cao rọi xuống những thân cây sóng lớp thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm ngào ngạt, mỡ màng. Tác giả đã dựng được khung cảnh có không gian ba chiều, tạo được không khí, làm sống dậy bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp tràn đầy chất thơ, tráng lệ. Thế nhưng dưới tội ác của kẻ thù, rừng đã mang trên mình những vết thương chiến tranh đau đớn, càng đau đớn rừng xà nu càng trào lên sức sống mãnh liệt: cạnh một cây đã ngã, có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn, nhanh chóng liền lại vết sẹo trên cơ thể cường tráng. Và khúc vĩ thanh của truyện: cả khu rừng lớn bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời. Bám rễ sâu trong lòng đất, những thân cao vươn lên đón nắng trời, ngàn năm như vẫn còn hát ru với gió... Thiên nhiên được miêu tả với sức sống to lớn, hùng mạnh, bất diệt. Vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ và bi thương của rừng hòa nhập với cuộc đời bi tráng của dân làng, nên rừng xà nu góp phần tạo ra vẻ đẹp sử thi, chất thơ của thiên truyện.

      Khi tái hiện một đoạn trường lịch sử đánh giặc ngoại xâm, tác giả đã xây dựng một tập thể anh hùng trong đó nổi bật tính cách anh hùng. Cụ Mết là nhân vật lịch sử. Cụ là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và có tính truyền thống của dân tộc Strá. Trong một tài liệu khác, tác giả bảo rằng: Ông là lịch sử bao trùm, gắn kết giữa quá khứ với hiện tại. Cụ là người đại diện cho quần chúng cách mạng, là gạch nối giữa Đảng với đồng bào dân tộc. Và vai trò của cụ Mết thể hiện rất rõ trong đêm đồng khởi và là người phát lệnh chiến tranh: Thế là bắt đầu rồi... đốt lửa lên. Chân lí đấu tranh cách mạng được rút ra từ thực tiễn chiến đấu giản dị mà sâu sắc: chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo. Cụ Mết đại diện cho sức mạnh, ý chí chiến đấu, trí tuệ và nguyện vọng của cộng đồng, là pho sử sống của cộng đồng, có ý thức giữ gìn lịch sử và là người đại diện cho lịch sử nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.

      Đại diện cho tập thể anh hùng là Tnú – đứa con của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên. Ngay từ nhỏ, Tnú đã tự thể hiện mình là con người gan góc, dũng cảm: xung phong đi nuôi cán bộ. Khi đi làm giao liên Tnú đã dũng cảm vượt qua bao khó khăn, Tnú không đi theo đường mòn, đường nước êm, mà bao giờ cũng chọn lối đi mà bọn giặc không ngờ tới.

      Thế nhưng, trong một lần Tnú rơi vào ổ phục kích, bị giặc bắt, tra tấn rất dã man nhưng Tnú không khai, vẫn hiên ngang và dám thách thức kẻ thù. Tnú là một chiến sĩ có phẩm chất đẹp đã được thử thách qua máu lửa: kiên trường, bất khuất, gan góc, dũng cảm, thủy chung với cách mạng, tinh thần sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cứu nước. Những vẻ đẹp ấy tiêu biểu cho phẩm chất của cộng đồng.

      Sau ba năm ở tù, Tnú vượt ngục trở về làng và đã có một mái ấm gia đình hạnh phúc với Mai. Nhưng thời gian sau bi kịch đã xảy ra, bọn giặc hung bạo đã giết mẹ con Mai, Tnú một lần nữa rơi vào tay giặc, bị tra tấn dã man. Tnú thà hi sinh chứ không chịu đầu hàng, cắn răng chịu đựng đau đớn, mất mát chứ không để kẻ thù khuất phục. Hình tượng Tnú trước giặc thù sừng sững hiên ngang như cây xà nu. Cuộc đời Tnú là khúc ca bi tráng. Số phận cuộc đời và tính cách của Tnú có ý nghĩa tiêu biểu cho cộng đồng nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.

      Ngoài ra, nhân vật Dít, bé Heng cũng có nét đẹp sử thi. Họ đại diện cho các thế hệ anh hùng nhanh chóng trưởng thành lớn mạnh như cây xà nu, thay thế lớp người đi trước, gánh vác nhiệm vụ lịch sử nối tiếp bước chân cha anh trong cuộc kháng chiến trường kỳ.

      Vẻ đẹp sử thi còn thể hiện qua hình thức trần thuật của truyện. Truyện có cách tổ chức trần thuật rất hấp dẫn, hai cốt truyện được lồng vào nhau: chuyện Tnú sau ba năm đi lực lượng về thăm làng và chuyện chiến đấu cách đó ba năm. Cốt truyện chính kể về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man được đẩy vào thời kì quá khứ. Nó được ghi nhớ trong hồi ức của cộng đồng, được soi chiếu bởi kỉ niệm, hoài niệm nên thật đẹp. Khi đẩy câu chuyện chiến đấu về thời quá khứ, tác giả đã tạo ra khoảng cách sử thi, để cho người hôm nay ngưỡng mộ, chiêm bái câu chuyện lịch sử hào hùng và nhân vật anh hùng của cộng đồng ngày xưa. Cách kể giống như cách kể khan (trường ca) của đồng bào Tây Nguyên, bên bếp lửa chung, già làng kể cho đám con cháu nghe suốt đêm không chán. Không khí kể chuyện rất trang nghiêm, mọi người ngồi tại nhà ưng im lặng lắng nghe, chỉ tiếng suối rì rào xa xa. Thái độ và giọng điệu của người kể rất trang trọng, như muốn truyền vào thế hệ con cháu những trang sử của cộng đồng. Cách trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ trang trọng làm cho câu chuyện được kể càng mang đậm tính sử thi.

icon-date
Xuất bản : 16/04/2021 - Cập nhật : 16/04/2021