Câu trả lời chính xác nhất:
Khi di chuyển kính hiển vi phải dùng cả hai tay, một tay đỡ chân kính, một tay cầm chắc thân kính và không được để tay ướt hay bẩn lên mặt kính là vì để tránh rơi vỡ và không làm mờ kính.
Các bạn hãy cùng Toploigiai tìm hiểu kĩ hơn về kính hiển vi qua bài mở rộng kiến thức dưới đây nhé.
Kính hiển vi là thiết bị y tế được sử dụng để quan sát các vật có kích thước nhỏ mà mắt thường chúng ta không thấy được. Khi cho qua kính hiển vi các vật đó được phóng đại lên 40-3000 lần so với kích thước ban đầu.
Công dụng của kính hiển vi:
+ Kính hiển vi thường được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu trong phòng thí nghiệm gồm vi sinh, vi điện tử, nanophysics, công nghệ sinh học, nghiên cứu dược phẩm,...
+ Trong sinh học, kính hiển vi được sử dụng để phóng đại các mẫu sinh học mà mắt thường không thể nhìn thấy được, tế bào động vật, thực vật, vi khuẩn có kích thước cực kỳ nhỏ. Những hình ảnh soi được sẽ phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên.
+ Sử dụng kính hiển vi soi nổi có thể phóng đại các bo mạch, linh kiện điện tử giúp những người thợ sửa chữa có thể nhìn thấy những chi tiết nhỏ mà mắt thường khó có thể nhìn thấy được. Ứng dụng phổ biến trong sửa chữa điện tử, điện thoại,..
+ Trong khoa học, y học kính hiển vi được dùng để quan sát và tìm ra các tế bào trong cơ thể, đồng thời quan sát các chất xúc tác với nhau.
+ Trong khảo cổ thiết bị này được dùng để quan sát các đồ cổ xác định xem đâu là thật đâu là giả
– Vào năm 1590 những chiếc kính hiển vi đầu tiên được phát minh ở Middelburg, Hà Lan. Ba người thợ tạo kính là Hans, Zachariar Janssen cùng với cha của họ là Hans Janssen là những người đầu tiên xây dựng nên những chiếc kính hiển vi sơ khai.
– Năm 1625, Giovanni Faber đã phát minh ra một kính hiển vi hoàn chỉnh đặt tên là Galileo Galilei
– Từ những nền tảng ban đầu, nhiều năm liên tiếp sau đó các cấu trúc của kính hiển vi quang học tiếp tục được phát triển, và kính hiển vi được sử dụng một cách phổ biến hơn ở Italia, Anh quốc, Hà Lan
– Đóng góp lớn nhất thuộc về nhà phát minh người Hà Lan Antoni van Leeuwenhoek, người đã phát triển kính hiển vi để tìm ra tế bào hồng cầu và tinh trùng.
– Năm 1931, các nhà nghiên cứu đã chế tạo thành công kính hiển vi điện tử ở Đức
– Với sử phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật, đã có rất nhiều loại kĩ thuật kính hiển vi hiện đại khác ra đời như: kính hiển vi điện tử quét, kính hiển vi quét đầu dò, hiển vi quang học trường gần,… đáp ứng nhu cầu sử dụng khá đa dạng của người tiêu dùng.
Ngày nay, kính hiển vi có nhiều loại mẫu mã, mỗi loại sẽ có mỗi cấu tạo khác nhau nhưng nhìn chung thì kính hiển vi đều có cấu tạo chung cơ bản như sau:
* Cấu tạo ngoài: Bộ phận hệ giá đỡ gồm có:
+ Thân máy
+ Bệ máy
+ Kẹp tiêu bản
+ Revonve mang vật kính
+ Bàn để tiêu bản
+ Bộ phận hệ phóng đại gồm có:
+ Thị kính: được làm bởi thấu kính hội tụ có tiêu cự rất ngắn. Có 2 loại cơ bản là ống đôi và ống đơn.
+ Vật kính: là bộ phận không thể thiếu của kính hiển vi. Vật kính có 3 độ phóng đại là x10, x40, x100.
* Cấu tạo trong:
- Vật kính L1: là một thấu kính hội tụ (hoặc hệ thấu kính có tác dụng như thấu kính hội tụ) có tiêu cự rất nhỏ (cỡ milimét)
- Thị kính L2: là kính lúp dùng để quan sát ảnh của vật tạo bởi vật kính.
Vật kính và thị kính gắn đồng trục ở hai đầu một ống hình trụ sao cho trục chính của chúng trùng nhau và khoảng cách giữa chúng O1O2=L không đổi.
Người ta gọi δ=F′1F2 (khoảng cách từ tiêu điểm ảnh của thấu kính L1 đến tiêu điểm vật của thấu kính L2) là độ dài quang học.
>>> Xem thêm: Hệ thống phóng đại của kính hiển vi bao gồm
* Kính hiển vi quang học
Kính hiển vi quang học gồm:
+ Kính hiển vi soi nổi hai mắt: loại này cho phép quan sát mẫu vật dưới dạng ảnh 3D một cách dễ dàng
+ Kính hiển vi trường sáng: loại này sử dụng ánh sáng truyền qua để quan sát các mục tiêu ở độ phóng đại cực lớn
+ Kính hiển vi phân cực: loại này sử dụng các đặc tính truyền dẫn ánh sáng khác nhau của vật liệu, ví dụ như cấu trúc tinh thể để tạo ra hình ảnh mẫu vật
+ Kính hiển vi phản pha: dùng để quan sát những bất thường của bề mặt nhỏ nhờ sử dụng giao thoa ánh sáng. Nó thường được sử dụng để quan sát tế bào sống mà không nhuộm
* Kính hiển vi điện tử
Là nhóm kỹ thuật hiển vi mà ở đó nguồn bức xạ ánh sáng được thay thế bằng các chùm điện tử hẹp được tăng tốc dưới hiệu điện thế từ vài chục kV đến vài trăm kV. Thay vì sử dụng thấu kính thủy tinh kính hiển vi điện tử sử dụng các thấu kính từ để hội tụ chùm điện tử, và cả hệ được đặt trong buồng chân không cao.
Có nhiều loại kính hiển vi điện tử khác nhau, tùy thuộc vào cách thức tương tác của chùm điện tử với mẫu vật như kính hiển vi điện tử truyền qua sử dụng chùm điện tử chiếu xuyên qua vật, hay kính hiển vi điện tử quét sử dụng chùm điện tử quét trên vật.
>>> Xem thêm: So sánh đặc điểm của kính hiển vi quang học và kính hiển vi điện tử?
Khi di chuyển kính hiển vi phải dùng cả hai tay, một tay đỡ chân kính, một tay cầm chắc thân kính và không được để tay ướt hay bẩn lên mặt kính, để tránh rơi vỡ và làm mờ kính
----------------------
Trên đây Toploigiai đã mang tới cho các bạn những kiến thức bổ ích qua câu hỏi Tại sao khi di chuyển kính hiển vi phải dùng cả hai tay, một tay đỡ chân kính, một tay cầm chắc thân kính và không được để tay ướt hay bẩn lên mặt kính và phần mở rộng về kính hiển vi. Chúc các bạn học tốt, mời các bạn đến với câu hỏi tiếp theo