logo

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà

Hướng dẫn lập Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà ngắn gọn nhất, hệ thống kiến thức về tác phẩm Chiếc lược ngà dễ hiểu giúp các em ôn tập tốt môn Ngữ Văn lớp 9


Tóm tắt tác giả, tác phẩm trước khi vẽ sơ đồ tư duy Chiếc lược ngà

I. Đôi nét tác giả Nguyễn Quang Sáng

- Nguyễn Quang Sáng (1932- 2014)

- Quê quán: Thị trấn Mỹ Luông-huyện Chợ Mới-tỉnh An Giang

- Sự nghiệp sáng tác:

+ Ông bắt đầu viết truyện từ năm 1954

+ Năm 1955, ông làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng

+ Sau khi đất nước thống nhất, ông về thành phố Hồ Chí Minh và làm Tổng thư kí Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh các khóa I,II,III

+ Năm 2000 ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật

+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Người con đi xa”, “Người quê hương”, “Bông cẩm thạch”

- Phong cách sáng tác: Các sáng tác của ông thường là về cuộc sống và con người Nam Bộ. Truyện ông thường có cốt truyện và lựa chọn các tình huống hết sức đặc sắc và giàu kịch tính. Truyện ngắn của ông thường rất giản dị vừa hiện đại và có âm hưởng

II. Tác phẩm Chiếc lược ngà

A. Tìm hiểu chung

1. Hoàn cảnh sáng tác

“Chiếc lược ngà” viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên

2. Tóm tắt

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến 8 năm trở về thăm gia đình và con gái. Bé Thu- con gái ông không chịu nhận cha vì vết thẹo dài trên mặt làm ông không giống người cha trong tấm ảnh chụp chung với má. Em tỏ ra lạnh nhạt đối xử với ông Sáu như người lạ. Đến lúc em nhận ra cha, tình cảm cha con trong em trỗi dậy mạnh mẽ nhưng đó cũng là lúc ông Sáu phải đi. Ở khu căn cứ ông dồn hết tâm lực, tình cảm làm cây lược tặng con.Chưa kịp trap cho con thì ông đã hí sinh. Trước khi nhắm mắt ông trút hơi sức cuối cùng trao cây lược cho bác Ba- người bạn của ông nhờ trao lại cho ông Sáu.

3. Giá trị nội dung

Truyện ngắn nói về tình cảm gia đình đặc biệt là tình cha con sâu nặng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh éo le

4. Giá trị nghệ thuật

Truyện kể theo điểm nhìn của bác Ba giúp tăng tính khách quan.Truyện thành công trong việc tạo dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên và hợp lí, thành công nữa là miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc qua suy nghĩ, hành động và lời nói.

B. Tìm hiểu chi tiết

1. Ông Sáu và bé Thu phải sống trong hoàn cảnh chia li bởi chiến tranh

- Ông Sáu là một chiến sĩ hoạt động trên chiến trường, suốt 8 năm ròng ông chưa từng được gặp mặt đứa con gái của mình

- Đồng nghĩa suốt 8 năm bé Thu chỉ biết cha qua tấm ảnh chụp chung với mẹ nó

⇒ Chiến tranh đẩy con người vào hoàn cảnh xa cách

2. Tình cảm cha con sâu nặng giữa ông Sáu và bé Thu

a. Lúc còn ở rừng

- Ông Sáu nhớ thương con vô cùng, khao khát gặp con, được sống trong tình yêu thương của con

- Khi gặp con:

+ Thuyền chưa cập bến đã nhảy vội lên bờ gọi con

+ Đáp lại bé Thu ngạc nhiên , sợ hãi, vụt bỏ chạy

b. Trong ba ngày ngày nghỉ phép

- Ông Sáu khao khát tình cảm của con bao nhiêu thì bé Thu lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm của cha

+ Ông càng xích lại gần, bé Thu càng lùi xa

+ Ông càng chiều bé Thu bao nhiêu, bé Thu càng lẩn tránh

+ Ông càng mong nghe được tiếng ba, bé Thu coàng cố tình trốn tránh

+ Ngay cả khi bé Thu bị lâm vào thế bí “nồi cơm sôi sùng sục nó cũng không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong đợi

+ Trong bữa cơm, hành động hất cái trứng cá của bé Thu là hành động đỉnh điểm nhất khiến ông Sáu thực sự đau lòng

⇒ Ông Sáu nhận ra tình cảm không dễ gì gượng ép, vì vậy ông cam chịu

- Bé Thu cũng là một người thương yêu ba của mình vô cùng

+ Tất cả những thái độ ương nhạnh ngang bướng của bé Thu đối với ông Sáu lại là biểu hiện tuyệt vời của tình phụ tử bởi Thu chỉ có duy nhất một người cha là người trong bức ảnh chụp với má nó

+ Khi Thu được bà ngoại giảng giải người có vết thẹo chính là ba em ⇒ Tình yêu thương dành cho ông Sáu tăng lên gấp bội

+ Trong khoảnh khắc cuối cùng trước lúc ông Sáu lên đường, Thu chạy ra ôm hôn cha

+ Hành động cùng giọt nước mắt ân hận của bé Thu chảy đầm đìa trên má, trên cằm khiến ông không kìm nén được xúc động

⇒ Tình cảm giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu là vô cùng sâu nặng

c. Lại những ngày ông Sáu xa con

- Ông Sáu thương nhớ con, ân hận vì mình đã đánh con.

- Tình yêu thương con đã khiến ông tự tay làm chiếc lược ngà thực hiện lời hứa với con

- Khi bị thương nặng ông đã dồn tất cả tàn lực của mình trao chiếc lược ngà cho ông Ba như một lời chăng chối cuối cùng

⇒ Tình cảm cha con trong lòng ông Sáu là một tình cảm bất diệt, chiến tranh có thể hủy diệt thân xác ông nhưng không thể hủy diệt tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu kết tinh trong chiếc lược ngà.


Cách vẽ sơ đồ tư duy môn văn đẹp và hiệu quả nhất

Để vẽ sơ đồ tư duy môn Văn hiệu quả, bạn cần chú ý các bước quan trọng sau:

- Tạo ý tưởng chính (ý tưởng trung tâm) cho bài

- Tạo các nhánh cho bản đồ tư duy

- Thêm các hình ảnh trong sơ đồ

Mindmap như một phương thức trực quan và hiệu quả trong việc ghi nhớ những tác phẩm, những ý chính trong văn học, chúng được dùng để thay thế rất hiệu quả cho những con chữ dài lê thê trong Văn học

Ngoài ra, bạn cũng nên thêm thắt những hình ảnh gợi nhớ trong Mindmap môn Văn. Khi sử dụng hình ảnh có tác dụng kích thích thị giác khiến não bộ tiếp nhận thông tin nhanh hơn, qua đó giúp bạn tiết kiệm thời gian học bài mà vẫn không quên các nội dung chính cần nhớ.


Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà - Mẫu số 1

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà lớp 9 ngắn gọn nhất

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà - Mẫu số 2

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà lớp 9 ngắn gọn nhất (ảnh 2)

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà - Mẫu số 3

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà lớp 9 ngắn gọn nhất (ảnh 3)

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà - Mẫu số 4

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà lớp 9 ngắn gọn nhất (ảnh 4)

 


Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà - Mẫu số 5

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà - Mẫu số 6

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà

Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà


Mẫu số 1

Người xưa vẫn hay nói “tình phụ tử không thể đẹp đẽ và ấm áp như tình mẫu tử” và có lẽ cũng chính vì nhận định đó nên hiếm có nhà văn nào viết về tình cha con. Trong số ít đó có thể kể đến Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966. Đây có thể được coi là một câu chuyện cảm động về tình cha con sâu nặng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện ngắn chắc hẳn đã lấy đi khá nhiều nước mắt của bạn đọc và cũng đã khắc sâu vào trong lòng những ai đã đọc truyện tình phụ tử sâu nặng.

Truyện kể về ông Sáu – 1 người chiến sĩ cách mạng. Ông xa nhà đi kháng chiến đã được 8 năm. Lần này được về phép ba ngày nên ông vô cùng phấn khởi khi nhận ra con gái của mình. Ông mừng rỡ chạy đến nhưng bé Thu Đã bỏ chạy vì sợ. Trong suốt 3 ngày ở nhà ông không dám đi đâu, suốt ngày bên con an ủi vỗ về mong con gọi một tiếng ba nhưng bé Thu luôn tìm cách lảng tránh ông. Nó nói trống không, hỗn xược với ông. Thậm chí trong bữa cơm tức giận quá ông đã đánh con bé. Thu liền chạy sang nhà bà ngoại. Ngày hôm sau trước khi ông Sáu lên đường bé Thu đã cất tiếng gọi ba. Cả ông Sáu và bé Thu đều bật khóc. Em đã cố níu giữ không cho ba đi nhưng vì công việc vì nhiệm vụ ông Sáu vẫn phải lên đường. Trước khi đi ông đã đồng ý với lời dặn của con là mua cho nó một cây lược. Ở chiến khu ông Sáu không nguôi nỗi nhớ về con, ân hận vì đã lỡ đánh con và nhớ tới lời dặn của con. Từ khi bắt được khúc ngà voi ông ra sức làm cho con cây lược, ông khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu – con của ba”. Trong một trận càn ông Sáu bị thương nặng, trước lúc hi sinh ông đã trao lại cây lược ngà cho bác Ba với ánh mắt như muốn trao gửi lại tất cả cho người đồng đội của mình.

Hiện lên trong truyện ngắn là hình ảnh của bé Thu – một em bé miền Nam đã chịu nhiều thiệt thòi vì chiến tranh, là một đứa bé ương ngạnh, bướng bỉnh nhưng cũng rất yêu mến cha của mình. Khi bé Thu đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà cùng với các bạn của em thì chiếc xuồng của ông Sáu cập bến. Khi nghe có người gọi “Thu! Con”, con bé giật mình, nó tròn mắt nhìn ngơ ngác, lạ lùng, tái mặt đi, vụt chạy và thét lên “Má! Má!”. Đó là sự bất ngờ, ngạc nhiên và hoảng sợ của một đứa bé khi lần đầu tiên nghe có người gọi là con và xưng là ba của nó. Phản ứng ấy rất tự nhiên và phù hợp. Trong ba ngày ngắn ngủi, em nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm nó lại nói “Thì má cứ kêu đi” đến khi mẹ nó nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh thì nó gọi trống không “Vô ăn cơm” rồi lại “Cơm chín rồi”. Trong lần mẹ em phải đi ra chợ mua thức ăn, em ở nhà phải trông nồi cơm. Khi nghe nồi cơm sôi, em giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua. Vì nồi cơm hơi to không thể nhấc xuống nhưng vẫn không chịu nhờ ông Sáu. Lúc nồi cơm sôi lên sùng sục, em hơi sợ “nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó lại nhìn lên” và cuối cùng nó cũng đã tự mình múc nước ở nồi cơm “miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá để vào chén nó đã hất cái trứng cá ra làm cơm văng tung tóe ra cả mâm. Bị ông Sáu đánh nó không khóc mà chạy ngay sang nhà bà ngoại khoe với bà và khóc. Cả đêm nó nằm im, lăn lộn và thở dài khi nghe bà ngoại lí giải mọi chuyện. Ngày hôm sau, khi ông Sáu lên đường nó cũng theo bà về, nó lặng lẽ đứng ở góc nhà, đôi mắt buồn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, “cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Lúc ông Sáu chuẩn bị lên đường, nó bỗng kêu thét lên “Ba..a..a..ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người nghe thật xót xa”. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ tận sâu trong đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tất cả cảm xúc dồn nén đến vỡ òa ra trong giây phút đỉnh điểm của sự xúc động, cảm xúc lần đầu tiên chạm đến thứ quý báu nhất trên đời, đó là tiếng gọi ba lần đầu tiên trong suốt 8 năm tuổi thơ chịu nhiều thiệt thòi. Rồi tình cảm của nó được biểu hiện bằng những nụ hôn “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Nó hôn lên vết thẹo dài bên má ba nó không chỉ là sự chuộc lỗi mà còn thể hiện tình cảm lớn lao mà nó dành cho ba. Vì vết thẹo đó mà nó ba nó đã phải chịu nhiều sự đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần. Người đọc nhận ra thái độ của em thay đổi đột ngột: em đã nhận ông Sáu là ba. Lúc này tình yêu ba của em dâng lên đầy mãnh liệt.

Còn về ông Sáu, trước sự ương bướng, ngang ngạnh của Thu ông Sáu vẫn là một người cha yêu con hết mực, vẫn cố gắng an ủi, vỗ về con. Sau 8 năm đi kháng chiến xa nhà, lần này được nghỉ phép ba ngày “cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”. Xuồng vào bến, chợt nhận ra bé Thu, không thể chờ xuồng cập bến “anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra” và ông gọi to “Thu! Con” giọng lắp bắp run run “Ba đây con! Ba đây con! “.Khi bé Thu chạy đi vì hoảng sợ cũng là lúc ông Sáu “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày nghỉ phép ông chẳng đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở nhà vỗ về, an ủi bé Thu mong em gọi một tiếng ba nhưng nó nhất quyết không chịu gọi. Bực mình trước sự ngang ngạnh và thái độ của Thu, không kìm nổi cảm xúc ông đã đánh con “giận quá, không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông con bé và hét lên: Sao mày cứng đầu quá vậy hả? “. Đang trong lúc tuyệt vọng nhất, ngỡ như bé Thu sẽ mãi mãi không bao giờ gọi là ba thì ông đã hạnh phúc tột cùng khi Thu nhận ông là ba, ông “vứt khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Nước mắt của ông Sáu chính là niềm vui sướng khi cuối cùng bé Thu đã chịu nhận ông là ba – niềm mong mỏi bấy lâu nay của ông Sáu. Rồi trước khi lên đường ông đã hứa sẽ mua cho nó một cây lược ngà.

Ở chiến khu, lúc nào ông cũng cảm thấy ân hận và day dứt vì đã đánh con. Từ khi bắt được khúc ngà voi ông Sáu vui lên hẳn. Ngày nào cũng cần mẫn, tỉ mỉ đẽo, gọt thành một chiếc lược ngà thật đẹp cho con gái yêu dấu. Ông còn khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu – con của ba”. Từ ngày làm xong chiếc lược ông cũng bớt đi phần nào ân hận vì đã đánh con. Những lúc rảnh rỗi ông thường lôi chiếc lược ra mà ngắm rồi chải lên mái tóc cho chiếc lược thêm bóng mượt và ông càng mong được gặp con hơn. Không may mắn trong một trận càn của địch ông Sáu bị thương, trước khi nhắm mắt ông đã cố sức lấy chiếc lược ngà nhờ bác Ba gửi lại cho con gái. Đến giây phút cuối của cuộc đời người cha ấy vẫn luôn nghĩ tới con, dành trọn tình yêu cho đứa con gái bé bỏng.

Bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, đậm chất Nam Bộ Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng rất thành công hình ảnh bé Thu và ông Sáu. Hai nhân vật chính cùng các tình huống truyện bất ngờ, hấp dẫn đã làm nổi bật lên tình cảm cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, trong bom đạn khốc liệt. Tình cảm ấy là cội nguồn sức mạnh giúp con người Việt Nam vượt lên sự hủy diệt của bom đạn kẻ thù.


Mẫu số 2

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được sáng tác năm 1966. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện éo le: Ông Sáu sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, ông được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. Trước nỗi xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu - đứa con gái ông yêu quý, mong nhớ suốt tám năm trời đã không nhận ra ông là ba. Ngày ông phải trả phép về đơn vị cũng chính là ngày con bé nhận ông là ba. Ở đơn vị, ông Sáu dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ, nỗi ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp trao cây lược cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mỹ. Từ tình huống truyện, tác phẩm đề cao, ngợi ca tình ca tình cha con sâu nặng, đồng thời tố cáo tội ác chiến tranh.

Truyện xoay quanh hai nhân vật chính là bé Thu và ông Sáu, thông qua tình huống truyện éo le, mỗi nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình.

Trước hết về bé Thu, em là con của ông Sáu nhưng từ nhỏ đã phải xa cha do ba vào chiến trường. Sau tám năm xa cách, Thu được gặp lại ba, những tưởng đó sẽ là cuộc đoàn viên đầy hạnh phúc, nhưng trái ngược với ông Sáu mừng rỡ lao về phía em thì Thu dửng dưng, thậm chí hốt hoảng gọi Má. Má . Những ngày sau đó, dù ông Sáu hết lòng chăm sóc nhưng bé Thu vẫn lạnh nhạt, thậm chí xa lánh, ngang ngạnh cự tuyệt ông Sáu. Dù ông đã làm hết cách nhưng bé Thu vẫn không gọi ông là ba. Những lúc gặp khó khăn, nguy cấp Thu chỉ gọi trống không, không nhận được sự trợ giúp của ông Sáu, nó cũng loay hoay tự làm một mình. Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, Thu gạt ra, bị ông Sáu đánh, cô bé lập tức bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thật chính xác thái độ, hành động khác thường của bé Thu. Bởi trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt em không hiểu những éo le mà chiến tranh gây ra, nên chỉ vì một vết thẹo trên mặt ông Sáu em kiên quyết không nhận ba. Điều đó cũng cho thấy Thu là đứa trẻ bướng bỉnh, cá tính nhưng đằng sau sự từ chối đến cứng đầu đó là tình yêu thương thắm thiết Thu dành cho ba mình.

Bé Thu cứng đầu chối từ sự ân cần của cha bao nhiêu thì giây phút nhận ra cha lại mãnh liệt, xúc động bấy nhiêu. Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu đã trở về nhà trong sáng ngày ông Sáu lên đường về đơn vị. Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người, tiếng gọi ba của Thu là tiếng gọi kìm nén suốt tám năm, tám năm yêu thương, đợi chờ ngày ba về. Không chỉ gọi, con bé con lao tới, nhảy lên người ba và hôn khắp cùng, hôn mặt, hôn má, và hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba, vết thẹo đã khiến con bé bướng bỉnh không nhận ba. Thu ôm chặt anh, quàng cả chân vào người anh Sáu, bởi nó sợ buông lơi anh Sáu sẽ đi mất, cái ôm cái hôn ấy còn như muốn bày tỏ tất cả tình cảm Thu dành cho ba. Trong khoảnh khắc đó, ai cũng như lặng người đi vì xúc động. Với lối miêu tả chân thực, giàu cảm xúc tác giả đã cho thấy tình yêu thương sâu nặng Thu dành cho ba, dù có những lúc gan góc, bướng bỉnh nhưng em rất giàu tình cảm và dễ xúc động.

Về phía ông Sáu, trong ba ngày về nghỉ phép, ông dành trọn yêu thương cho đứa con gái bé bỏng. Thuyền chưa cập bến ông đã vội vàng nhảy lên bờ, chạy về phía con, đôi bàn tay sẵn sàng dang ra chờ đợi đứa con sà vào lòng. Nhưng trái ngược với điều ông tưởng tượng, bé Thu cự tuyệt, lảng tránh, điều đó làm ông hết sức đau lòng, hai tay ông buông thõng như bị gãy. Khuôn mặt ấy thật đáng thương biết bao, ông không biết làm thế nào để có thể xóa nhòa khoảng cách thời gian và không gian ấy. Để bù đắp cho con, ba ngày nghỉ phép ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con, yêu thương, ân cần bên con mong Thu sẽ thay đổi. Trước sự cứng đầu của Thu, ông chỉ khẽ lắc đầu, chứ không hề trách mắng con. Chỉ đến khi ông gắp thức ăn cho nó bị Thu bỏ ra, bao nhiêu buồn đau dồn nén bấy lâu ông đã đánh Thu, điều ấy đã làm ông ân hận mãi về sau. Khoảnh khắc hạnh phúc nhất mà cũng đau lòng nhất của ông chính là được nghe tiếng gọi ba thiêng liêng, nhưng đó cũng là lúc ông phải chia tay con trở về đơn vị. Một người lính từng trải, gan góc trên chiến trường lại khóc bởi tiếng gọi đầy thân thương. Những giọt nước mắt không thể kiềm chế, cứ thế trào ra. Trong những ngày ở chiến trường ông ân hận vì đánh con, không quên lời hứa, ông dồn tâm huyết vào làm chiếc lược ngà. Ông chi chút, tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược cho nhẵn bóng. Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu. Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình qua ánh mắt đầy yêu thương. Cây lược ấy đã được người đồng đội trao lại cho bé Thu. Tình cha con đã không chết, nâng đỡ cô bé trưởng thành, vượt lên mọi đau thương mất mát. Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con trong hoàn cảnh chiến tranh.

Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, bất ngờ qua đó thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, giàu cảm xúc. Hình ảnh giản dị, mà giàu giá trị, ý nghĩa biểu tượng, kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà. Ngôn ngữ đậm giản dị, đậm chất Nam Bộ.

Câu chuyện đã tái hiện thành công tình cha con sâu nặng của bé Thu và ông Sáu. Từ đó, tác giả cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh; những bi kịch cùng tình cảm gia đình đẹp đẽ trong thời chiến. Đồng thời tác phẩm cũng ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

Trên đây là Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà do Top lời giải tổng hợp và biên soạn. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt bộ môn Văn. Tham khảo thêm nhiều bài Văn mẫu 9 được cập nhật liên tục tại toploigiai.vn em nhé.

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 23/06/2022