logo

Phép quân điền được thực hiện dưới thời nào?

Đáp án và giải thích chính xác câu hỏi trắc nghiệm “Phép quân điền được thực hiện dưới thời nào?” cùng với kiến thức lý thuyết liên quan là tài liệu hữu ích môn Lịch sử dành cho các bạn học sinh và thầy cô giáo tham khảo.

Trắc nghiệm: Phép quân điền được thực hiện dưới thời nào?

A. Nhà Lý

B. Nhà Trần

C. Nhà Tiền Lê

D. Nhà Lê sơ

Trả lời:

Đáp án đúng D. Nhà Lê sơ

“Phép quân điền” – chính sách phân chia ruộng đất công ở các làng xã được thực hiện dưới triều đại nhà Lê sơ: nhà nước cấp ruộng đất cho quý tộc, quan lại, đặt phép quân điền để phân chia ruộng đất công ở làng xã.

Cùng Top lời giải tìm hiểu về chế lộc quân điền và lộc điền thời lê sơ các em nhé!


Kiến thức mở rộng về chế độ quân điền và lộc điền


1. Chế độ lộc điền là gì?

Phép quân điền được thực hiện dưới thời nào?

- Chế độ lộc điền là chế độ ruộng đất mà nhà vua ban cấp cho quan lại, người thân để khai thác, sử dụng, coi đó như món quà, bổng lộc mà nhà vua ban tặng.

Chế độ lộc điền được tồn tại từ thời phong kiến, ` song thể hiện rõ nhất trong luật lệ của triều Lê (từ năm 1428 đến năm 1788). Chế độ lộc điền thực chất là việc nhà vua - với tư cách là người đại diện tối cao của nhà nước phong kiến trung ương đã định ra luật lệ về việc ban cấp ruộng đất cho tầng lớp quan lại cấp cao và những người thân thuộc trong hoàng tộc để hưởng dụng. Lộc điền là một trong những bổng lộc của quan lại (bao gồm: Tuế bổng - tiền được cấp hàng năm; Thực hộ - số hộ dân để sai phái, nộp thuế, hoặc cung cấp mắm muối; Lộc điền - ruộng đất được ban cấp để hưởng dụng). Người được cấp lộc điền là những quan lại cao cấp từ Thân vương đến các quan hàm tứ phẩm, những người thuộc tầng lớp cao cấp nhất của nhà nước phong kiến. Căn cứ để được nhà vua ban cấp lộc điền là hàm cấp, tước phẩm của quan lại hoặc lập công được vua ban thưởng, ghi công. Ruộng đất cấp theo chế độ lộc điền được chia làm 2 loại: loại ruộng đất thế nghiệp và loại cấp tạm thời cho hưởng dụng. Đối với loại ruộng đất thế nghiệp, thì được truyền lại cho con cháu đời sau tiếp tục được hưởng lộc. Đối với loại ruộng đất cấp tạm thời cho hưởng dụng, thì người hưởng dụng chết, sau 3 năm, con cháu người này phải trả lại số ruộng đất (lộc điền) mà không được ẩn lậu. Trong mọi trường hợp, nhà nước phong kiến trung ương mà đại diện là nhà vua luôn khẳng định quyền sở hữu tối cao và tuyệt đối đối với số ruộng đất được cấp theo chế độ lộc điền. Nhà vua có thể thu hồi lại số ruộng đất đã cấp theo chế độ lộc điền trong một số trường hợp nhất định khi có nhu cầu.


2. Chế độ quân điền

a. khái niệm chế độ quân điền

- Quân điền chế là một thể chế về sở hữu và phân phối đất đai trong lịch sử Trung Quốc từ thời Lục triều đến giữa thời nhà Đường.

- Thời nhà Hán, chế độ Tỉnh điền dần đã không còn được sử dụng ở Trung Quốc, mặc dù các nhà cải cách như Vương Mãng đã cố gắng khôi phục nó. Thay vào đó, chế độ Quân điền được đưa vào áp dụng vào khoảng năm 485, do Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế áp dụng tại một vương quốc không phải người Hán ở Bắc Trung Quốc, trong thời kỳ Nam – Bắc triều. Thể chế này cuối cùng đã được các triều đình khác chấp nhận và tiếp tục sử dụng nó qua các triều đại Tùy – Đường.

b. Nội dung, ý nghĩa của chế độ quân điền

* Nội dung:

- Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp cai quản, quản lí chia cho nông dân cày cấy.

- Các quan lại tùy theo chức vụ cao thấp, được cấp ruộng đất làm bổng lộc

- Ruộng trồng lúa, người làm thuê đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước, ruộng trồng dâu được cha chuyền con nối.

* Ý nghĩa :

- Nông dân yên tâm sản xuất.

- thực hiện nghĩa vụ cho nhà nước.

- Hạn chế phong trào đấu tranh của nông dân.

c. Nền tảng của chế độ quân điền

- Thể chế này hoạt động trên cơ sở hầu hết đất đai thuộc sở hữu của triều đình, sau đó sẽ giao cho các gia đình quản lý. Mỗi cá nhân, kể cả nô lệ, được hưởng một diện tích ruộng đất nhất định, tùy thuộc vào khả năng cung ứng lao động của họ. Ví dụ, những người đàn ông khỏe mạnh đã nhận được 40 mẫu đất (tương đương khoảng 1,1 ha hoặc 2,7 mẫu Anh), trong khi phụ nữ nhận được ít hơn, và nhiều khoản đất được cấp thêm một con bò thuộc sở hữu của gia đình. Sau khi người được giao quản lý đất chết, đất sẽ được giao lại cho triều đình để được phân phối lại, mặc dù các điều khoản được cho phép để thừa kế đất cần phát triển lâu dài, chẳng hạn như trang trại cho dâu tằm (đối với tằm).

- Thế chế này được dự định để thúc đẩy sự phát triển của đất đai và để đảm bảo rằng không có đất nông nghiệp nào bị bỏ hoang. Điều này ngăn cản giới quý tộc phát triển các cơ sở quyền lực lớn bằng cách độc quyền các lĩnh vực, và cho phép người dân thường tham gia vào canh tác và đảm bảo sinh kế của họ. Từ những điều này, triều đình đã có thể phát triển một cơ sở thuế và làm chậm quá trình tích tụ đất đai bằng những bất động sản rộng lớn. Điều này cũng được các triều đại nhà Đường sử dụng để phá vỡ chu kỳ triều đại. Chu kỳ triều đại là ý tưởng rằng tất cả các triều đại sẽ chấm dứt và điều này sẽ ngăn chặn nó bằng cách người dân nhận được đất từ triều đình; điều này làm cho họ cảm thấy như triều đình đã cho họ một cái gì đó mặc dù nó không bao giờ rời đi.

d. Chính sách quân điền thời Lê Sơ

Phép quân điền được Lê Lợi ban hành năm 1429 và hoàn thiện vào thời Lê Thánh Tông; bộ ‘luật quân điền’ được chép trong Thiên Nam dư hạ tập năm 1481. Như vậy, ruộng đất phong thì được thu hẹp lại còn ruộng đất công xã trực tiếp đến tay người dân thì được mở rộng thêm. 

Chính sách này cho phép giải quyết khá ổn thoả mối quan hệ sở hữu ruộng đất giữa nhà nước với quý tộc quan lại và giữa nhà nước với nhân dân. Trong thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), nông nghiệp được rất mực chú trọng. Vua đích thân đi cày đầu năm (lễ Tịch điền) để cổ vũ cho mùa vụ mới. Một năm sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông ra sắc chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn rằng: “Từ nay về sau, trong việc làm ruộng, phải khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếm chuyện buôn bán, làm trò du thủ du thực. Người nào có ruộng đất mà không chăm cày cấy, thì quan cai trị bắt trình trị tội”. 

‘Chế độ lộc điền’ xuất hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho quý tộc, tông thất và những quan lại cao cấp, đẩy mạnh sự phát triển của giai cấp địa chủ – tầng lớp thống trị mới trong xã hội phong kiến lúc đó. Còn ‘chế độ quân điền’ thì lại có tác dụng tích cực nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo điều kiện cho nhà nước huy động nhân lực và vật lực cho quốc phòng. ‘Chế độ quân điền’ thời Lê Sơ còn có tác dụng làm giảm bớt bất công trong xã hội, góp phần động viên những người đã và đang có công đóng góp xây dựng quân đội, đánh giặc giữ nước, như Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã nói: “Người đi đánh giặc thì nghèo, người đi rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước, một tấc đất để ở, mà những kẻ du thủ du thực không có ích gì cho nước lại có ruộng đất quá nhiều… Nay sắc cho các đại thần bàn định số ruộng cấp cho quan, quân và dân, trong từ đại thần trở xuống đến các người già yếu, mồ côi, goá chồng, đàn ông, đàn bà trở lên”

icon-date
Xuất bản : 07/03/2022 - Cập nhật : 19/03/2022