logo

Vị vua nào dưới triều Nguyễn đã quyết định chia đất nước thành các đơn vị hành chính tỉnh?

Đáp án và giải thích chính xác câu hỏi trắc nghiệm “Vị vua nào dưới triều Nguyễn đã quyết định chia đất nước thành các đơn vị hành chính tỉnh?” cùng với kiến thức lý thuyết liên quan là tài liệu hữu ích môn Lịch sử 10 dành cho các bạn học sinh và thầy cô giáo tham khảo.


Trắc nghiệm: Vị vua nào dưới triều Nguyễn đã quyết định chia đất nước thành các đơn vị hành chính tỉnh?

A. Gia Long

B. Minh Mạng

C. Thiệu Trị

D. Tự Đức

Trả lời:

Đáp án đúng: B. Minh Mạng


Kiến thức mở rộng về Vua Minh Mạng 


1. Tiểu sử vua Minh Mạng

Minh Mạng (25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) hay Minh Mệnh, là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi ông qua đời, được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thánh Tổ. Ông là vị vua có nhiều thành tích nhất của nhà Nguyễn. Đây được xem là thời kỳ hùng mạnh cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam.

Vị vua nào dưới triều Nguyễn đã quyết định chia đất nước thành các đơn vị hành chính tỉnh?

Trong 21 năm trị vì, Minh Mạng ban bố hàng loạt cải cách quốc nội. Ông đổi tên nước Việt Nam thành Đại Nam, lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở Huế, bãi bỏ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi. Quân đội cũng được chú trọng xây dựng (do liên tục diễn ra nội loạn và chiến tranh giành lãnh thổ với lân bang). Minh Mạng còn cử quan đôn đốc khai hoang ở ven biển Bắc kỳ và Nam kỳ. Ngoài ra, ông rất quan tâm đến việc duy trì nền khoa cử Nho giáo, năm 1822 ông mở lại các kì thi Hội, thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài. Ông nghiêm cấm truyền bá đạo Cơ Đốc vì cho rằng đó là thứ tà đạo làm băng hoại truyền thống dân tộc.

Thời Minh Mạng, trong nước liên tục xảy ra nội loạn và chiến tranh. Liên tiếp xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại triều đình (Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nông Văn Vân,… ở miền Bắc và Lê Văn Khôi ở miền Nam). Trong 21 năm cai trị, đã có tới 234 cuộc nổi dậy chống triều đình trên cả nước, nhà vua phải sai nhiều tướng đánh dẹp rất mệt nhọc.

Về đối ngoại, Minh Mạng không đưa ra cải cách nào, ông tiếp tục duy trì chính sách của Gia Long: Bế quan toả cảng, khước từ mọi giao lưu với phương Tây, cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến Đại Nam dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kỹ thuật.

Đối với các nước láng giềng, Minh Mạng sử dụng vũ lực nhiều lần: giành lại Trấn Ninh (từng bị vua cha là Gia Long cắt cho Ai Lao), lập các phủ Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế Ai Lao; đánh bại Xiêm La để giành quyền khống chế Chân Lạp, chiếm vùng Nam Vang (Phnôm Pênh ngày nay) và đổi tên thành Trấn Tây Thành; kết quả là nước Đại Nam thời đó có lãnh thổ rộng hơn cả hiện nay. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh tốn kém đó đã làm cạn kiệt quốc khố nên nhà Nguyễn đã không giữ được các lãnh thổ mới đánh chiếm. Ngay sau khi Minh Mạng mất, con ông là Thiệu Trị đã phải rút quân khỏi Trấn Tây Thành, chỉ 7 năm sau khi chiếm được vùng này. Do quốc khố suy kiệt nên quân đội nhà Nguyễn sau thời Minh Mạng cũng ngày càng yếu đi. Nhiều lãnh thổ khác cũng bị Xiêm La đánh chiếm mà nhà Nguyễn không còn khả năng để giành lại (nay thuộc về nước Lào) nên lãnh thổ nhà Nguyễn sau thời Minh Mạng lại bị co hẹp lại, nhỏ hơn so với Việt Nam hiện nay.


2. Các thành tựu nổi bật. 

Cải cách hành chính 1831 - 1832

Dưới thời vua Gia Long, các đơn vị hành chính ở nước ta vẫn có sự khác biệt giữa đàng ngoài và đàng trong. Lúc này, đơn vị hành chính ở Đàng Ngoài theo thứ tự là trấn, phủ, huyện, xã. Trong khi đó, đơn vị hành chính ở Đàng Trong theo thứ tự là dinh, phủ, huyện, xã.

Trong giai đoạn từ năm 1831 đến 1832, vua Minh Mạng đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Năm 1831, vua Minh Mạng đã chia các trấn ở miền Bắc và miền Trung thành 18 tỉnh. Trong đó, 13 tỉnh thuộc Bắc Kỳ và 5 tỉnh thuộc Trung Kỳ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện.

Giai đoạn 2: Năm 1832, vua Minh Mạng tiếp tục chia các dinh, trấn ở miền Nam thành 12 tỉnh. Trong đó, 6 tỉnh thuộc Trung Kỳ và 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ.

Các đơn vị hành chính dưới tỉnh lần lượt là phủ, huyện, châu, tổng, xã.

Ở mỗi tỉnh, Minh Mạng cho đặt chức quan Tổng Đốc quản lý từ 2 đến 3 tỉnh, Tuần Phủ quản lý chuyên trách 1 tỉnh. Vua lại cử thêm Bố chánh sứ ty quản lý hộ tịch, thuế khóa và Án sát ty chịu trách nhiệm quản lý pháp luật, an ninh.

Sau cuộc cải cách, nước ta được chia thành 31 đơn vị hành chính gồm 1 Phủ Thừa Thiên và 30 tỉnh. Đơn vị hành chính ở nước ta đã được tinh gọn so với các thời kỳ trước đó.

Nhờ vậy, việc quản lý từ trung ương đến địa phương trở nên dễ dàng hơn.

Đặc biệt, các đơn vị hành chính dưới thời kỳ Minh Mạng là tiền đề để phân chia các đơn vị hành chính sau này. Đến tận ngày nay, một số tên đơn vị hành chính từ thời Minh Mạng vẫn được sử dụng như tỉnh, huyện, xã.

Giáo dục

Là người tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến nền khoa cử, học vấn. 

 Năm 1821, ông đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp, năm 1822 mở lại thi Hội, thi Đình. Ông còn cho đặt đốc học ở thành Gia Định, ông giao trọng trách cho nhà giáo Nguyễn Trọng Vũ người Nghệ An, giữ chức Phó Đốc học chăm lo việc học hành ở Nam Bộ. Bấy giờ, ở Gia Định có Trịnh Hoài Đức là người có học vấn cao nên được nhà vua tin dùng, phong làm Hiệp Biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lại kiêm Thượng thư bộ Binh.

Minh Mạng còn đặt ra lệ rằng ai được thăng quan, bổ nhiệm đều phải lên kinh gặp vua trước khi nhậm chức. Đây là cơ sở để nhà vua kiểm tra đức độ, năng lực và khuyên bảo điều hay lẽ phải, cốt sao cho lợi ích nước nhà.

Năm 1836, ông cho thành lập “Tứ dịch quán” để dạy ngoại ngữ (tiếng Pháp, Xiêm).

Vua Minh Mạng muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết tiến hành ra sao bởi triều thần của ông chỉ toàn là những hủ nho lạc hậu, không giúp đỡ được nhà vua trong một kế hoạch nào làm cho quốc phú, dân cường. Ông đã nói rằng:

“ Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau dần đổi lại.” 

(Minh Mạng)

Cho tới khi qua đời thì Minh Mạng vẫn chưa tìm ra cách cải tổ nền giáo dục của đất nước. Các vua nhà Nguyễn sau này cũng vậy, dẫn tới việc nhà Nguyễn chỉ toàn các nhà Nho biết làm thơ phú chứ không có ai tài giỏi trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Sự lạc hậu về công nghệ cũng là một trong các nguyên nhân khiến nhà Nguyễn mất nước vào tay thực dân Pháp sau này.


3. Lăng mộ vua Minh Mạng

Vị vua nào dưới triều Nguyễn đã quyết định chia đất nước thành các đơn vị hành chính tỉnh? (ảnh 2)

Lăng vua Minh Mạng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993.

Lăng Minh Mạng là nơi an nghỉ của vị vua thứ 2 dưới triều Nguyễn – vua Minh Mạng. Công trình do vua Thiệu Trị – con trai vua Minh Mạng xây dựng.

- Năm 1826, vua Minh Mạng sai tìm đất xây lăng, nhưng đến 14 năm sau mới chọn được địa điểm và đồ án thiết kế kiến trúc do Quan địa lý Lê Văn Đức tìm ra.

- Tháng 4/1840 Vua đổi tên vùng núi Cẩm Khê thành Hiếu Sơn và sai binh lính tiến hành khảo sát địa thế, đo đạc đất đai ở đó và vẽ sơ đồ Lăng.

- Tháng 9/1840: Điều chỉnh mặt bằng và xây vòng La thành chung quanh khu vực kiến trúc.

- Tháng 2/1841: Sau khi Vua Minh Mạng băng hà, vua Thiệu Trí nối ngôi và tiếp tục xây dựng lăng.

- Tháng 8/1841: Đưa quan tài của vua Minh Mạng vào chôn ở Bửu thành.

- Năm 1843: Lăng được xây dựng hoàn tất theo đồ án của vua Minh Mạng để lại.

icon-date
Xuất bản : 12/03/2022 - Cập nhật : 15/03/2022