logo

Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn Làng của Kim Lân

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân ? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung ngắn gọn, chi tiết, hay nhất của Top lời giải dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!


Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân - Bài mẫu 1

Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn Làng của Kim Lân (ngắn gọn, hay nhất)

     Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân.

     Truyện ngắn “Làng” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân Việt Nam ta trong những ngày đầu chống Pháp.

     Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết.

     Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu đất nước.

     Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão “nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định: “hay là quay về làng?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù” Có thể nói với ông Hai, làng và nước bây giờ đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước được ông Hai đặt lên trên hết.

     Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trạng nhân vật như vậy. Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: “con ủng hộ ai?” Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

     Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “bác Thứ đâu rồi! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả” Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm trí ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch.

     Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dùng sai: “bác Thứ đâu rồi… Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả”. Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đốt cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình.

     Truyện “Làng” là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.


Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân - Bài mẫu 2

     “Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

     Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện gắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biến trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

     Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác.

     Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…’’.

     Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao.

     Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.

     Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.

     Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học chống Pháp.

     Với kết cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.

     Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vônga đi ra biển..”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

     “Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.


Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân - Bài mẫu 3

     Kim Lân là một trong số ít những nhà văn viết ít mà thành công lớn. Văn ông nhỏ nhẻ, chậm rãi, hóm hỉnh mà đằm thắm. Trong cả hai giai đoạn sáng tác – trước và sau cách mạng – giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Truyện ngắn “Làng” có lẽ là tác phẩm nổi bậc nhất của Kim Lân và của cả nền văn học Việt Nam trước cách mạng 1945. Với ngòi bút chân thành, cái nhìn hiền lành mà sâu sắc, Kim Lân đã diễn tả những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp qua nhân vật ông Hai – một lão nông hết mực yêu cái làng của mình.

     Có thể nói thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, cách mạng gặp rất nhiều khó khăn. Phần bởi thiếu thốn nhân lực, vật lực, bị quân Pháp khủng bố mạnh, phần bởi người dân chưa thực sự ngã về phía cách mạng. Bác Hồ hiểu rõ, muốn thắng kẻ thù phải vận động được sức mạnh toàn dân tộc, tạo nên một cuộc bão táp cách mạng, quét sạch kẻ thù ra khỏi đất nước.

     Năm 1948, truyện ngắn Làng ra đời thật đúng thời điểm. Lúc này, người nông dân đã dần tin tưởng và ủng hộ cách mạng. Sự diễn biến này diễn ra từ từ nhưng rất chắc chắn. Kim Lân đã nhìn thấy điều đó. Nó rất cần thiết cho một cuộc vận động toàn diện trên mặt trận yêu nước, mặt trận kháng chiến. Nhưng ông muốn diễn tả sự giác ngộ ấy một cách tự nhiên nhất, không gượng ép, không mang biểu dương hay ca ngợi theo kiểu khẩu hiệu. Bởi thế, nhân vật ông Hai ra đời là kết quả của sự cân nhắc rất kĩ lưỡng của nhà văn.

     Ông Hai là một nông dân suốt cuộc đời sống ở làng Chợ Dầu, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, tổ tiên và họ hàng gần xa. Quê hương trở thành một phần máu thịt của ông. Và khi chết đi, ông cũng muốn được nằm trên mảnh đất yêu thương này.

     Người Việt Nam ta là thế, họ luôn nghĩ “cây có cội, nước có nguồn”, quê hương chính là cội nguồn không bao giờ được đánh mất. Thế nên, khi được lệnh phải đi tản cư, ông Hai lưỡng lự, lúc đầu ông quyết không đi. Cũng thật dễ hiểu cho ông Hai, bằng tuổi này rồi, sống được bao lâu nữa, giờ ra đi biết có trở về được không? Còn cái làng này ông yêu nó thế, giờ ra đi rồi, ông như mất đi nửa cuộc đời. Ẩn sau cái tình yêu làng là thói quen nghìn đời của người nông dân sống bám đất bám làng, thủy chung với quê hương nguồn cội.

     Ẩn sau cái tình yêu làng còn là cái tình yêu nước thiết tha. Nhưng cách mạng đang cần và họ phải thay đổi. Những chuyển biến âm thầm mà dữ dội ấy trong tình cảm của người nông dân Việt Nam đã được nhà văn biểu đạt hết sức xúc động bằng sự cảm thông sâu sắc.

     Lưu luyến, nấn ná vậy chớ gia đình ông Hai cũng đi. Chưa biết rồi sẽ ra sao nhưng vì cách mạng, vì kháng chiến nên phải cùng mọi người lên vùng đất mới. Đó là cái tài tình của nhà văn. Bởi ông muốn nói rằng, sự giác ngộ của người nông dân là hoàn toàn tự nguyện; từ tình yêu quê hương mà lớn thành tình yêu đất nước; từ thái độ căm ghét kẻ thù, căm ghét kẻ phản bội mà bùng nổ khát vọng chiến đấu, một lòng trung thành với cách mạng, trung thành với lãnh tụ Hồ Chí Minh.

     Để làm sáng bừng tư tưởng của truyện, Kim Lân đã khéo léo để cho ông Hai tự đấu tranh. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng Chợ Dầu tha thiết. Ban ngày, lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, buổi tối ông Hai thường sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng Chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong quang sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thanh… Ông khoe cả cái “sinh phần” của viên tổng đốc to lớn và oai nghiêm lắm.

     Đặc biệt là ông Hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu cách mạng. Quê hương được giải phòng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… Nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông.

     Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.

     Tưởng đâu, đó sẽ là niềm tự hào mãi mãi cho đến khi ông rời thế gian này. Đùng một cái, ông hay tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết, là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình và nỗi tủi nhục tột cùng trào lên trong ông.

     Cuộc xung đột sảy ra dữ dội trong ông, đau đớn hơn bất cứ điều gì ông đã từng trải qua. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng Chợ Dầu vẫn là nới ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ làng ông lại theo Tây. Ông hoàn toàn sụp đổ.

     Tình huống truyện đặt ra cho nhân vật những lựa chọn hết sức khó khăn. Liệu ông Hai có còn dám yêu cái làng của mình nữa không? Không yêu làng thì ông sẽ yêu cái gì? Con người luôn cần phải có một niềm tin yêu để sống, ông không thể bỏ rơi tinh thần của mình. Ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ kháng chiến.

     Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây thì phải thù .. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai”. Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát để gắn kết giữa tình quê hương và tình yêu tổ quốc.

     Thế đấy, họ đã ngã về với kháng chiến khi đứng trong lựa chọn sống còn bằng tình cảm thiêng nhất, trong sáng nhất. Kim Lân đã miêu tả sự chuyển biến ấy rất chân thực và hết sức tự nhiên. Thủy chung với quê hương là tình cảm tốt đẹp nhưng tình yêu đất nước còn lớn hơn.

     Có thể nói đó là một thủ thách lớn đối với nhân vật ông Hai và cả nhà văn Kim Lân. Đoạn tuyệt với cái mình từng yêu thương nhất, quý trọng nhất, ngày đêm gìn giữ như một báu vật thật là khó khăn. Thế mới thấy, tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, yêu nước của người nông dân mới to lớn, mới mạnh mẽ trở thành tình cảm thiêng liêng và duy nhất ngay lúc này. Họ thức nhận được rằng, không có nỗi nhục nào lớn hơn nỗi nhục mất nước và khi đất nước còn bị xâm lăng thì cái làng của họ cũng đâu còn.

     Từ đó, họ đứng hẳn về phía cách mạng, tin tưởng và ủng hộ cách mạng, góp sức chung cho sự nghiệp kháng chiến giải phóng đất nước. Kim Lân đã tỉ mỉ tạc khắc niềm tin ấy bằng sự trân trọng sâu sắc.

     Và khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông Hai như vừa thoát khỏi một gánh nặng tinh thần ghê gớm. Tình yêu làng của ông lại trở về hòa quyện trong tình yêu nước thắm thiết, sâu nặng hơn trong lòng người nông dân chân chất này.

     Phải chăng, Kim Lân đã quá hiểu cái tâm lí của người nhà quê, họ sẽ không chịu thay đổi, họ bảo thủ với lối sống cũ nếu không cho họ có dịp trải nghiệm nỗi đau thương, mất mát, sự ô nhục và tự hào. Ở ông Hai, đã có một sự thay đổi tích cực và được khẳng định mạnh mẽ. Dẫu nhà của ông bị cháy rụi mà ông vân vui cười và tự hào vì nhà mình bị giặc đốt. Nghĩa là ông đã đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến một phần tài sản và công sức trong sự hi sinh lớn của dân tộc. Ông Hai chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về cái làng Chợ Dầu kháng chiến của mình.

     Từ khi có cách mạng, cuộc đời người nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hoà chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái tham gia kháng chiến, cầm súng bảo vệ quê hương.

     Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.

     Vẻ đẹp tâm hồn của ông hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.

     Không xung phong, không cầm súng, không ra trận, nhưng Kim Lân lại chiến đấu bằng ngòi bút hết sức âm thầm mà quyết liệt. Có thể nói, qua nhân vật ông Hai phản phất hình bóng của Kim Lân trong đó. Cũng như ông Hai, Kim Lân yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng lắm. Từ nhận thức và tình cảm của bản thân, ông tìm cách chuyển tải nó vào văn học. Nhân vật ông Hai là kết tinh sâu sắc cái tài, cái tình của nhà văn Kim Lân đối với cuộc đời, đối với đất nước.

---/---

Như vậy Top lời giải đã trình bày xong bài văn mẫu Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân . Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021