logo

Top 15 mẫu Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân

icon_facebook

Tổng hợp dàn ý và Top 15  mẫu Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân ngắn gọn, hay nhất, giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn.


Dàn ý Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du

- Giới thiệu đoạn trích "Cảnh ngày xuân"

2. Thân bài

a. Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân trong bốn câu đầu:

- Đàn chim én chao nghiêng trên bầu trời xuân

- Ánh sáng kì diệu ấm áp của nắng tháng ba

- Cỏ cây xanh bát ngát, tít tắp tới chân trời

- Cành lê điểm sắc trắng tinh khôi của những bông hoa chớm nở

=> Bức tranh mùa xuân xinh đẹp, khoáng đạt, thanh bình qua nghệ thuật điểm xuyết của nhà thơ.

b. Cảnh đạp thanh, tảo mộ:

- Khung cảnh đi hội thật vui tươi, phấn chấn, háo hức

+ "Chị em" ai cũng sắm sửa cho mình những bộ cánh áo thật đẹp để dự hộ

+ Gần xa nô nức những "chị em, giai nhân, tài tử" cùng nhau du xuân, hò hẹn, trên đường tấp nập, đông vui bởi ngựa xe.

+ Cảnh tảo mộ thiêng liêng, mang buồn vương, nhớ thương những người đã khuất

c. Cảnh ra về sau ngày hội:

- Chị em Kiều dắt nhau “ thơ thẩn" ra về mà lòng luyến tiếc, bịn rịn

- Không gian dường như bị thu hẹp hơn, cảnh êm đềm có mang chút buồn vương nhè nhẹ

- Trong đoạn cuối này, tác giả đã sử dụng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" đầy độc đáo, cảnh mang màu của tâm trạng.

3. Kết bài

Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" đã cho thấy một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tài năng xuất chúng của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.


Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân - Bài mẫu 1

Truyện Kiều là khúc “đoạn trường tân thanh” về cuộc đời oan khổ của nàng Kiều. Những dòng thơ như có “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy” (Mộng Liên Đường chủ nhân) ấy đã làm rung động triệu triệu con tim suốt mấy thế kỉ qua. Nhưng đời Kiều không phải không có những ngày vui, và Truyện Kiều không phải không có những trang tươi sáng. Đó là những ngày còn trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che”, bình yên bên cha mẹ, các em. Kiều cũng như bao người, được tham gia những ngày hội vui. Cảnh ngày xuân với không khí lễ hội là một trong những trang vui hiếm hoi của Truyện Kiều, đã thể hiện tài năng độc đáo của Nguyễn Du :

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Mở đầu cho không khí lễ hội nhộn nhịp là bức tranh ngày xuân sáng tươi :

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xa tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh xuân tràn đầy sức sống : màu trắng tinh khôi thanh khiết tô điểm cho màu xanh hài hoà, mang đến một không khí xuân ngập tràn, chan chứa hi vọng. Lòng người dâng bao cảm xúc bâng khuâng, trước vẻ đẹp trong trẻo của bức tranh xuân. Điầu đó được thể hiện rõ nét hơn trong khung cảnh lễ hội :

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

Hai câu thơ mang tính khái quát, như một lời giới thiệu về lễ hội – từ đó cho ta thấy được điểm nhìn khoáng đạt của tác giả. Tết Thanh minh là tiết vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo, mọi người đi tảo mộ, tức là đi viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân. Đó còn là dịp để mọi người du xuân, tận hưởng không khí trong lành, thanh sơ của những ngày tháng ba.

Không khí ngày hội vui tươi náo nửc, được diễn tả trong nhịp thơ nhanh :

Gần xu nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tàị tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Con người, cảnh vật như cùng hoà nhịp trong không khí rộn ràng ngày xuân. Nó tương hợp với cảnh sắc tràn đầy sức sống ở bốn câu thơ đầu. Một loạt những từ ngữ đặc tả không khí nhộn nhịp được Nguyễn Du đưa vào trong mấy câu thơ ngắn : “gần xa”, “nô nức”, “dập dìu”, càng làm nổi bật màu sắc tươi vui của lễ hội. Trước mắt ta như hiện lên một bức tranh náo nhiệt: người người, tài tử giai nhân dập dìu, sánh vai nhau đi chơi xuân. Hai hình ảnh so sánh : “Ngựa xe như nước áo quần như nêm” đủ để khắc hoạ khung cảnh nhộn nhịp, đồng vui của ngày hội.

Những câu thơ làm hiện lên cả màu sắc, âm thanh, không khí, tâm trạng. “Gần xa” là khắc hoạ không gian ; “nô nức” là diễn tả tâm trạng của người dự hội; “như nước”, “như nêm” cho thấy không khí ngày hội. Đó là cái tài của một ngòi bút miêu tả bậc thầy. Nguyễn Du chỉ bằng vài nét khắc hoạ đã làm sống động cả một không khí rộn ràng ngày xuân. Cảnh đẹp đẽ, tươi vui hay chính là tâm trạng phơi phới của người trong cảnh. Được miêu tả từ điểm nhìn của chị em Thuý Kiều nên ta có thể nhận ra trong đó tâm hồn trẻ trung của những cô gái “xấp xỉ tới tuần cập kê”. Chính sức trẻ của những giai nhân ấy đã thổi hồn vào cảnh vật.

Sự nhộn nhịp của hội được tô điểm bởi phần lễ :

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vố rắc tro tiền giấy bay.

Với hai câu thơ, đại thi hào dân tộc đã làm sống lại những nét văn hoá xưa qua tục lệ đốt vàng mã. Nhưng ở đây, lễ không phải là trọng tâm của cảnh. Vì vậy,nhữna “thoi vàng”, “tiền giấy” dường như chi là nghi thức góp phần làm cho không khí ngày xuân thêm phần trang trọng, tôn nghiêm.

Chỉ với tám câu thơ nhưng Nguyễn Du đã dựng nên trước mắt người đọc một bức tranh ngày hội đẹp đẽ, tươi sáng, tràn đầy sức sống. Những từ láy lồng trong những vế tiểu đối một cách nhịp nhàng tạo cho bức tranh một sự hài hoà nhưng vẫn không thiếu những điểm nhấn ấn tượng.

Những câu thơ về ngày hội xuân không phải là những trang đặc sắc nhất của Truyện Kiểu nhưng là một trong những giai điệu vui tươi hiếm hoi trong khúc “đoạn trường tân thanh” não ruột. Nó cho ta thấy sức sống tâm hồn của Thuý Kiều và khẳng định tài năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du. Nhớ đến Truyện Kiêu, độc giả không thể quên những vần thơ tươi sáng về khung cảnh lễ hội ngày xuân, tràn ngập sắc xuân, tình xuân trong tiết thanh minh này.

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân hay nhất

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân - Bài mẫu 2

Đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) thể hiện sâu sắc đỉnh cao bút pháp tả cảnh của thiên tài Nguyễn Du. Cái hay trong bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du đó là ông không tả mà chỉ gợi. Nghệ thuật ấy được minh chứng rõ ràng trong khung cảnh lễ hội khi chị em Thúy Kiều rời gót du xuân.

Sau bức tranh mùa xuân tươi thắm, Nguyễn Du hướng ngòi bút vào miêu tả khung cảnh lễ hội nô nức phố phường:

Thanh minh, trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Không khí lễ hội được gợi tả từ một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Đoạn thơ sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) làm rõ hơn tâm trạng người đi hội. Nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi tả sự đông vui tấp nập. Và nhiều động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng, đông vui của ngày hội xuân.

Thông qua buổi du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn nam thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én, chim oanh bay ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt nổi bật những nam thanh, nữ tú, những “tài tử gia nhân” tay trong tay dạo chơi. Niềm vui lễ hội như bao trùm cả nhân gian. Những so sánh rất giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông vui, tấp nập của phố phường.

“Lễ là tảo mộ” – lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người thân; đốt vàng vó, sắc tiền để tưởng nhớ những người đã khuất. “Hội là đạp thanh” – vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh, là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau. “Lễ” là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội” là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời. Lễ và hội trong tiết Thanh minh là một sự giao hòa, độc đáo. Chứng tỏ nhà thơ rất yêu quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa dân tộc.

Khép lại một bức tranh cảnh lễ hội nhộn nhịp, Nguyễn Du trả nó về với cái nhìn của tâm trạng. Mùa xuân rừng rực sức sống nhưng sao có phần buồn bã trong “thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”. Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh kết thúc lại trong sắc thái có chút u buồn chứ không còn rộn rã như buổi ban mai. Có phải rằng, qua hình ảnh ấy, ông ngầm dự báo về những trắc trở, tai ương sẽ xảy với con người ra sau những cuộc vui như thế này chăng?

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân hay nhất (ảnh 2)

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân - Bài mẫu 3

Ông bà Vương viên ngoại có ba người con là Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Hai cô con gái đã đến tuổi cài trâm. Dáng vẻ yểu điệu như liễu, như mai, tâm hồn trong trắng như băng, như tuyết. Thúy Vân đẹp đoan trang, phúc hậu, nguyệt thẹn, hoa nhường. Thúy Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà, nghiêng thành, nghiêng nước. Vương Quan khôi ngô tuấn tú, đang theo học chữ nghĩa thánh hiền. Ngày xuân, trong tiết Thanh minh, ba chị em Thúy Kiều rủ nhau cùng dạo chơi xuân.

Vừa mới Tết Nguyên Đán hôm nào mà giờ đây đã là đầu tháng ba. Bầu trời trong xanh, những đám mây trắng bồng bềnh trôi. Chim én vẫn rộn ràng bay liệng giữa không trung bao la. Khí trời mùa xuân mát mẻ khiến cho hoa lá tốt tươi. Màu cỏ non xanh mướt kéo dài đến tận chân trời. Trên cành lê, điểm mấy bông hoa trắng rung rinh trước gió. Cảnh đẹp như giục giã bước chân chị em Thúy Kiều. Theo phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, nhà nhà lo chuẩn bị cho lễ tảo mộ để bày tỏ lòng thương tiếc và biết ơn đối với người đã khuất. Đây cũng là dịp thiên hạ du xuân, thưởng lãm vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên.

Ba chị em Thúy Kiều vui vẻ hòa vào dòng người trẩy hội. Từ khắp chốn, tài tử, giai nhân nườm nượp kéo về. Khung cảnh rộn ràng, tấp nập, ngựa xe như nước chảy, người người chen vai sát cánh. Từng tốp kéo lên gò cao, xúm quanh những ngôi mộ của người thân, sửa sang cho sạch sẽ, đắp thêm đất, trồng thêm hoa, đốt vàng thoi, bạc giấy và thắp hương khấn vái… Khói thơm nghi ngút tỏa rộng một vùng. Sự giao hòa giữa người đã khuất và người còn sống diễn ra trong không khí thiêng liêng, xúc động.

Chẳng mấy chốc, trời đã ngả về chiều. Mặt trời đang lặn dần sau dãy núi phía tây. Một màn sương bảng lảng dâng lên trong hoàng hôn. Thúy Kiều thấy lòng chợt se buồn. Nàng giục Thúy Vân và Vương Quan ra về. Ba chị em thơ thẩn bước theo con suối nước chảy trong veo, nhìn rõ cả những hòn cuội trắng tinh và đàn cá lượn lờ dưới đáy. Một chiếc cầu gỗ nhỏ xinh, dáng cong cong thanh tú bắc ngang cuối ghềnh, làm cho khung cảnh càng thêm thơ mộng.

Lần đầu tiên, ba chị em nhà họ Vương đi chơi xuân. Trong tâm hồn mỗi người, cảm xúc buồn vui lẫn lộn. Vương Quan cất tiêng giục Thúy Kiều, Thúy Vân rảo bước bởi đường về nhà vẫn còn xa lắm!

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân hay nhất (ảnh 3)

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân - Bài mẫu 4

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820, ông là một thiên tài văn học một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc. Ông mang tầm vóc của một đại thi hào trên cả hai phương diện văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm với nhiều tác phẩm xuất sắc mà tiêu biểu chính là “Truyện Kiều”. Trong đó đoạn trích “Cảnh ngày xuân”  là một bức tranh thiên nhiên về lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ và bút pháp miêu tả giàu chất  tạo hình của ông. Ở đó hiện lên khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh thật tươi đẹp:

“Thanh minh trong tiết tháng ba

 …..Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Nếu như trong những đoạn thơ trước đã thấy bức họa mùa xuân hiện ra thật đẹp với không gian và thời gian nghệ thuật thì đến đây lại là một bức vẽ về lễ hội thanh minh. Và bức tranh ấy càng hoàn thiện hơn với vẻ đẹp của tiết thanh minh:

“Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh 

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” 

Qua ngòi bút của Nguyễn Du cảnh lễ hội tưng bừng và để náo nhiệt rộn ràng mà đông vui đang dần được tái hiện. Đó là bức tranh lễ hội trong tiết thanh minh thường diễn ra vào tháng ba hàng năm. Tác giả đã vận dụng biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc ” lễ là…. hội là” như diễn tả quy luật vẫn lặp đi lặp lại trở thành một truyền thống ngàn đời của dân tộc ta, đó là lễ Tết thanh minh. Không chỉ dừng lại ở đó tác giả còn vận dụng một loại những từ ghép từ láy “nô nức, sắm sửa tài tử,…” cùng các hình ảnh so sánh ẩn dụ đầy ấn tượng ” như nước, như nêm, yến anh” phác họa một lễ hội vừa có cái đông tấp nập, lại vừa có sự vui vẻ náo nhiệt tưng bừng. Tác giả viết “nô nức yến anh” là một hình ảnh ẩn dụ gợi ra hình ảnh của những thanh niên nữ tú đang rộn ràng đi chơi xuân. Việc vận dụng một loạt các biện pháp tu từ đặc sắc, Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh toàn cảnh về dòng người và vạn vật: Trên khắp các nẻo đường dòng người khi đi trẩy hội cuồn cuộn. Trong lễ hội ấy ta bắt gặp sự xuất hiện của chị em Thúy Kiều cũng đang hòa mình vào dòng người ấy:

“Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”

“Chị em” ở đây là gợi nhắc đến chị em Thúy Kiều. Họ đang xúng xính trong những bộ trang phục đẹp nhất đi trẩy hội. Nhìn họ xinh đẹp sang trọng và phong lưu biết bao nhiêu!

Thông qua buổi du xuân Nguyễn  Du còn tạc vào lòng người chính là nét đẹp văn hóa của người Việt trong dịp Tết Thanh minh:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên 

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Thế giới phong tục trong tiết Thanh minh dần được mở ra cùng những thủ tục truyền thống. Trước mắt bạn đọc đọc là hình ảnh của những gò đống ngổn ngang. Trong dịp Tết thanh minh, này mọi người không chỉ cầu nguyện cho vong linh người đã mất mà còn gửi gắm niềm tin của mình vào một tương lai hạnh phúc mỗi độ xuân về. Phải chăng Nguyễn Du rất am hiểu về đời sống tâm linh cũng như phong tục của dân gian thì ông mới có thể viết lên những lời hay ý đẹp mà cũng rất chân thực như vậy về Tết thanh minh – ngày lễ đã trở thành truyền thống của dân tộc Việt ngàn đời nay.

Khéo léo trong việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật liên tiếp: so sánh, ẩn dụ, điệp cấu trúc cùng cách viết những từ láy từ ghép Nguyễn Du đã gợi mở ra trước mắt ta khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh: trong sáng, tấp nập, đông vui và náo nhiệt. Có thể nói lễ hội trong tiết thanh minh là sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Từ đó càng cho ta hiểu rõ hơn về tình cảm yêu quý và trân trọng của Nguyễn Du đối với vẻ đẹp và giá trị truyền thống của dân tộc.


Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân - Bài mẫu 5

Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc với nhiều đời làm quan. Ông học rộng tài cao là một nhà nho chân chính và còn là một đại thi hào lớn của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm Truyện Kiều của nguyễn Du không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vươn xa ra thế giới. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” thuộc phần đầu Truyện Kiều miêu tả cảnh ngày xuân và cảnh chị em Thúy Kiều đi du xuân.

“Cảnh ngày xuân” chính là bức tranh mùa xuân sinh động và đặc sắc với đầy đủ âm thanh, ánh sáng,.. mà Nguyễn Du thể hiện sinh động trong Truyện Kiều. Ngày xuân ấy làm con người ta phơi phới được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên ngày xuân

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Ngày xuân chim chóc muôn loài cũng nô nức bay lượn. Và con chim én là loài chim đại diện mùa xuân cũng không ngoại lệ. Chim én bay đi bay lại như thoi đưa. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa ngụ ý ngày xuân qua nhanh quá. Ngoài ra Nguyễn Du còn tài năng trong việc sử dụng những từ ngữ miêu tả như: “thiều quang”,”cỏ non”,”cành lê trắng”,…

Từ những từ ngữ gợi tả mà Nguyễn Du đã phát họa nên một khung cảnh xuân khiến bao người mê mẩn thèm thuồng được một lần chim ngưỡng. Một ánh sáng chói lóa, một bầu trời xuân xanh ngát, một vài bông hoa nhẹ nhẹ đong đưa. Ôi! Khung cảnh ấy làm người ta say đắm! Từ đó tạo nên một bức tranh ngày xuân tràn đầy sức sống.

Cảnh thiên nhiên vừa đẹp vừa thơ mộng vừa tràn đầy sức sống như thế ấy. Và phong cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng nhộn nhộn nhịp không kém. Tấp nập người nô đùa qua lại góp phần cho tiết thanh minh không đơn độc lạnh lẽo như mọi người thường nghĩ.

“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”

Nhắc đến ngày tiết thanh minh không thể nào không nhắc đến hai lễ hội: “tảo mộ”,”đạp thanh”. Hai lễ hội thể hiện sự nghiêm trang long trọng của cảnh ngày xuân mà đặc biệt là tiết thanh minh. Nguyễn Du sử dụng những động từ tính từ để thể hiện hành động của những người đi chơi hội cũng rất náo nhiệt và tấp nập.

Bên cạnh đó Nguyễn Du còn sử dụng từ ngữ gợi tả “yến anh”-chỉ loài chim én, chim oanh về mùa xuân thường ríu rít bay từng đàn, đây là ngụ ý cảnh người người tấp nập đi chơi xuân. Làm nổi bật không khí rất rộn ràng nhộn nhịp và đông vui.

“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Ngày tết qua ngòi bút của Nguyễn Du là “dập dìu tài tử giai nhân”. Trai tài gái sắc yêu nhau chỉ mong đến ngày xuân để có dịp đi chơi cùng nhau. Đó cũng là lẽ thường tình. Ai ai cũng muốn sắm sửa quần áo thật đẹp thật lộng lẫy để đi trẩy hội mà chính vì thế Nguyễn Du sử dụng cụm từ gợi tả”áo quần như nêm”.

Người người đi lại tấp nập chật cứng như nêm. Lo sắm sửa bản thân nhưng cũng không quên thể hiện lòng thành đối với người đã khuất “thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”. Đây là hành động tâm linh thể hiện tấm lòng đối với người đã khuất. Qua ngòi bút uyên bác của Nguyễn Du khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh rộn ràng nhộn nhịp, người người đông vui, thiên nhiên tươi sáng trong lành và bầu trời xanh cao.

Tiệc vui nào cũng đến lúc tàn, cảnh tàn tiệc ấy luôn gợi cho người ta cảm giác hụt hẫng và buồn bã. Phần cuối đoạn trích chính là cảnh chị em Thúy Kiều vui xuân trở về.

“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Việc dùng từ láy “tà tà” nhằm gợi tả và nhấn mạnh một buổi chiều tà. Buổi chiều ấy, đâu bao giờ để diễn tả niềm vui mà đặc biệt là lúc con người ta đang háo hức du xuân thế này. Đoạn cuối là đoạn thơ mà Nguyễn Du sử dụng rất nhiều từ láy như:” thanh thanh”,”nao nao”nho nhỏ”,… đó đều là những từ láy thể hiện tâm trạng cảm xúc thầm kín và sâu sắc của Thúy Kiều.

Chân trời cảnh sắc xuân mà lòng buồn mang mác. Hay đó là điềm dự báo trước mà Nguyễn Du đặc biệt ưu ái dành cho Thúy kiều. Dự cảm về một người con gái đẹp, tài năng nhưng bạc phận. Màu “thanh thanh” là một màu sắc trầm buồn mà ở đây Nguyễn Du đặc biệt miêu tả cũng rất ấn tượng.

“Nao nao dòng nước” cũng đầy tâm trạng, mượn cảnh tả tình là thế ấy, mượn cảnh thiên nhiên để nói lên cảm xúc con người. Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh rộn ràng nhộn nhịp người qua lại. Nhưng đâu đó trong thâm tâm Thúy Kiều vẫn chất chứa nỗi tâm sự thầm kín về dự cảm số phận của bản thân nàng.

Qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du đã cho thấy được tài năng miêu tả thiên nhiên và nội tâm nhân vật rất đặc sắc của nhà văn. Sử dụng nhiều từ láy, hình ảnh gợi tả giàu chất tạo hình làm nổi bật cảnh ngày xuân đầy màu sắc sinh động tươi mới. Từ đó thấy được bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp đầy sức sống mà cũng chất chứa nhiều tâm trạng mà Nguyễn Du thể hiện ở phần đầu tác phẩm Truyện Kiều.


Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân - Bài mẫu 5

Không chỉ là một nhà văn tài ba trong nghệ thuật tả người, Nguyễn Du còn tỏ ra là người vô cùng xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Bức tranh nào dưới ngòi bút của ông cũng trở nên có thần, có hồn gửi gắm bao cảm xúc của nhân vật. Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên như vậy, bức tranh ấy không chỉ đẹp, hài hòa về màu sắc mà còn thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của chị em Thúy Kiều.

Câu thơ mở đầu là khung cảnh mùa xuân tuyệt mĩ:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Những cánh én chao nghiêng, bay lượn trên bầu trời tựa như những cái thoi đưa, Nguyễn Du đã lựa chọn hình ảnh thật tiêu biểu, thật đặc sắc. Lúc này, mùa xuân đã ở cuối tháng ba, vào thời điểm viên mãn, tròn đầy, đẹp đẽ nhất. Đó là không gian tràn ngập ánh sáng, rực rỡ, huy hoàng. Nhưng ẩn đằng sau niềm vui sướng còn cho thấy sự nuối tiếc của chị em Thúy Kiều vì cảnh xuân, ngày xuân, sắc xuân đã trôi qua quá nhanh. Hai câu thơ không chỉ đơn thuần thông báo thời gian mùa xuân đã “ngoài sáu mươi"mà còn cho thấy một mùa xuân ấm áp, ngọt ngào. Trước vẻ đẹp đó không khỏi làm lòng người xao xuyến, vui tươi và cũng có chút nuối tiếc, ngậm ngùi về sự chảy trôi của thời gian.

Hai câu thơ tiếp theo, bằng vài nét bút chấm phá, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tuyệt tác:

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Bức tranh tràn ngập màu xanh tươi non, mỡ màng của cỏ, màu xanh ấy ngập đầy khắp không gian, kéo dài đến tận chân trời, cho thấy sức sống mạnh mẽ, căng tràn của mùa xuân. Như để làm nổi bật bức tranh mùa xuân Nguyễn Du “điểm"một vài bông hoa lê vào bức tranh ấy. Hoa lê trắng tinh khôi, dù tác giả không miêu tả mùi hương, nhưng có lẽ người đọc cũng có thể tưởng tượng được hương thơm thanh nhã, dịu dàng, tinh khiết như chính màu sắc của loài hoa đó. Thành công của Nguyễn Du ấy là khiến cho bức tranh trở nên sống động, như đang cựa quậy tràn đầy nhựa sống khi sử dụng động từ “điểm”, khiến bức tranh không tĩnh như trong thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa"mà sinh động, tràn đầy sức sống. Bức tranh đẹp đẽ là sự hòa quyện tinh tế của hai sắc xanh và trắng, khiến cho không gian vừa mang nét tươi tốt, tròn đầy lại vừa mang sự trong trẻo, tinh khiết.

Trong khung cảnh mùa xuân đẹp đẽ là hình ảnh đoàn người nối nhau đi chảy hội: “Thanh minh trong tiết tháng ba/ Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Tác giả sử dụng tiểu đối cùng với nghệ thuật tách từ “lễ"và “hội"làm hai vế giúp tác giả diễn tả hai hoạt động diễn ra trong hội xuân: lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Câu thơ cho thấy nét văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta tưởng nhớ về công ơn của những người đã mất. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân ta “Uống nước nhớ nguồn”, lối sống ân tình, trân trọng và biết ơn ông cha, tổ tiên: “Ngổn ngang gò đống kéo lên/ Thoi vào vó rắc, tro tiền giấy bay”. Không chỉ vậy câu thơ còn khái lược về nét văn hóa khác của dân tộc ta đó là du xuân đầu năm. Đây là dịp để những nam thanh nữ tú gặp gỡ nhau, cùng nhau thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân. Không khí lễ hội diễn ra vô cùng náo nức, tươi vui. Tác giả sử dụng liên tiếp các từ hai âm tiết: gần xa, yến anh, chị em,… cùng với các từ láy : nô nức, dập dìu,.. đã cho thấy tâm trạng náo nức, vui vẻ của lòng người trong lễ hội mùa xuân. Để tăng thêm không khí nhộn nhịp đó, Nguyễn Du còn sử dụng hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh”, một mặt gợi hình ảnh đoàn người nhộn nhịp đi du xuân, mặt khác gợi lên những tiếng xôn xao, những cuộc trò chuyện, gặp gỡ, làm quen của những đôi uyên ương trong lần đầu gặp gỡ. Không chỉ rộn ràng mà không gian còn vô cùng đông đúc: “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”. Qua tám câu thơ tiếp, thi nhân không chỉ khắc họa thành công nét đẹp văn hóa của dân tộc ta mà đằng sau đó còn là không gian tạo nên cuộc gặp gỡ định mệnh giữa nàng Kiều tuyệt sắc giai nhân và chàng Kim nho nhã, phong lưu.

Trời dần về chiều, lễ và hội cũng đã dần vơi dần, bớt dần, chị em Thúy Kiều thơ thẩn ra về, không gian có gì đó hiu quạnh, gợi nên nỗi buồn man mác trong lòng người đi hội, đặc biệt là trong lòng cô Kiều đa sầu đa cảm:

Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

Những hình ảnh “tiểu khê"“nho nhỏ"thể hiện một không gian bé nhỏ, đi vào chiều sâu, dường như mọi sự vật đều nhỏ dần, nhạt dần, phảng phất nỗi buồn, nỗi tiếc nuối vào khoảnh khắc ngày tàn. Trong đoạn thơ tác giả sử dụng ba từ láy “thanh thanh"“nao nao"“nho nhỏ"vừa giàu giá trị tạo hình vừa giàu giá trị biểu cảm. Đặc biệt từ “nao nao"không chỉ gợi tả về dòng nước đang chảy mà còn thể hiện tâm trạng xao xuyến, bồi hồi, đầy tâm tình của nhân vật. Tất cả những từ láy này khiến cho khung cảnh nhuốm đầy màu sắc tâm trạng. Đó là cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, nuối tiếc và một nỗi buồn nhẹ nhàng. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du không chỉ miêu tả bức tranh mùa xuân mà còn thể hiện được tâm hồn nhạy cảm, trong sáng của những người thiếu nữ.

Để tạo nên sự thành công cho bức tranh mùa xuân, Nguyễn Du đã vận dụng tài tình bút pháp tả cảnh ngụ tình: không chỉ cho thấy một mùa xuân đẹp đẽ, khung cảnh du xuân nhộn nhịp mà cho cho thấy những rung cảm tinh tế, sâu sắc của nhân vật. Ngôn ngữ thơ phong phú, đa dạng: sử dụng các từ láy, từ ghép giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Nhịp thơ biến đổi linh hoạt biểu hiện được cảm xúc của nhân vật.

Trích đoạn Cảnh ngày xuân đã cho ta thấy ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du. Bằng những nét chấm phá có hồn đã dựng lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân rực rỡ, vui tươi. Và qua đó cũng cho thấy tầm hồn nhạy cảm, tinh tế của những con người trẻ tuổi mà ở đây là Thúy Kiều.

---/---

Với các bài văn mẫu Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân do Top lời giải sưu tầm và biên soạn trên đây, hy vọng các em sẽ có thêm những góc nhìn mới mẻ và có cái nhìn tổng quát hơn về  tác phẩm. Chúc các em làm bài tốt!

icon-date
Xuất bản : 12/05/2022 - Cập nhật : 08/06/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads