logo

Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 

Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con ngắn gọn

1. Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con mẫu 1

    Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ mai sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống của tổ tiên, dân tộc vốn là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam suốt bao đời nay. Bài thơ Nói với con của Y Phương một nhà thơ dân tộc Tày, cũng nằm trong nguồn cảm hứng nhân văn phổ biến ấy.

    Tác giả mượn lời một người cha chân tình, dặn dò con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, về những đặt điểm tính cách cao đẹp của quê hương, dân tộc với ước muốn đứa con hãy ghi nhớ, phát huy. Đoạn 2 bài thơ Nói với con đã thể hiện qua cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh của người dân miền núi, đem đến cho bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, tin cậy:

“Người đồng mình….nghe con”

    Đoạn thơ được nối tiếp theo sau đoạn cảnh người cha khơi gợi cội nguồn sinh dưỡng giúp đứa con khôn lớn, trưởng thành. Bằng đoạn thơ trên, người cha đã ngợi ca những đức tính cao đẹp của con người quê hương nằm khơi gợi cho con lòng từ hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy tiếp tục xứng đáng với truyền thống ấy.

    Bắt đầu đoạn thơ bằng cụm từ “người đồng mình” với ý nghĩa là người vùng mình, người miền mình, cách nói giản dị của miền núi và được lặp đi lặp lại ba lần trong đoạn trích, Y Phương đã gửi vào đó niềm tự hào của mình về những đức tính cao đẹp của người dân miền núi bằng tấm lòng yêu mến vô hạn.

    Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây niềm ước vọng càng thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”. Tình cảm được nâng lên nhiều lần bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.

    Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

“Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”.

    Ta dễ dàng nhận ra tính tả thực và phép ẩn dụ tượng trưng đã được nhà thơ vận dụng ở đây. Với phép tả thực, Y phương đã vẽ ra cảnh người dân miền núi mà ở đay dân tộc Tày có cội nguồn sinh dưỡng là những vùng núi cao ngút ngàn, rất hoang vắng và rất buồn bởi cuộc sống nghèo khó, nhọc nhằn. Tuy buồn, tuy khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn bám đất, bám bán làng, vẫn thủy chung cùng quê hương. Và càng ở cao, càng gian khổ mới thấy được tấm lòng quyết tâm gìn giữ cội nguồn sinh dưỡng của người dân miền núi.

    Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc đáo. Họ lấy hình sông, lấy dáng dáng để biểu thị vẻ đẹp của tinh thần và lối sống. Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng quyết tâm chinh phục, vượt qua.

    Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ ước đến tương lai nơi mà chí lớn sẽ vươn tới.

Chính từ niềm mơ ước ấy, người cha đã nhẹ nhàng nhắc nhở đứa con hãy khắc ghi, rèn luyện, phát huy:

“Dẫu làm sao thì cha cũng muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

    Đoạn thơ với những hình ảnh cụ thể như núi rừng quê hương được Y Phương nhắc lại theo phép liệt kê: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “như sông”, “như suối” , “lên thác xuống ghềnh”…”kết hợp với các điệp ngữ: “sống…không chê…”, nhà thơ đã gợi lại cuộc sống vất vả, gian nan đầy thử thắt đối cới người dân Tày giữa hoan sơ đại ngàn.

   Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

   Cách gợi của nhà thơ được đặt trong giọng điệu mạnh mẽ, chắc nịch, đầy quyết tâm và niềm tin tưởng. Một lần nữa y Phương trong vai người cha đã nhắc con nhớ rằng người đồng mình, người trong cùng bản làng của mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.

    Thông qua đó, nhà thơ với vai trò người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.

    Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi. Tuy “người đồng mình” không mấy đẹp đẽ ở hình thức nhưng luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần lớn lao, không bao giờ nhỏ bé, không bao giờ thôi ước vọng vươn cao.

    Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồngmình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương.

   Lời cha giản dị, ân cần trang nghiêm, chắc nịch đã giúp đứa con nhận ra rằng chính nhờ những “người đồng mình” như thế, những con người có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:

“Người đồng mình tự đụng đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”.

    Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình. “Đục đá” là công việc vô cùng nặng nhọc, đòi hỏi phải bền bỉ, nhẫn nại. “Đục đá” vào ý thơ dã trở thành hình ảnh sinh động, gợi cảm. Bởi qua ý thơ, hình ảnh ấy giúp ta hình dung hiện thực người dân lao động miền núi bằng khát vọng và ý chí “đục đá kê cao quê hương” đã tôn tạo vẻ đẹp văn hóa của dân trọi với bao thiên tai, bão lũ, bao bọn giặc hung tàn để gìn giữ, bảo vệ quê hương của cả dân tộc.

    Đó là hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả cũng chính là hình ảnh anh hùng Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-lây thân yêu, làm nên chiến tích lịch sử. Cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước…. Hình dung ra điều ấy, ta mới thấy chi tiết “đục đá kê cao quê hương” là một hình ảnh ấn tượng, chứa chan niềm tự hào cao độ của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu.

    Lòng mong muốn ấy còn được thể hiện trong giọng thơ thiết tha, trìu mến bởi ngữ điệu cảm thán: “con ơi”; “đâu con”; ở những lời tâm tình dặn dò: “nghe con” nhưng lại chắc nịch niềm tin của nối nói của người dân miền núi, vừa giàu hình ảnh vừa tự nhiên, xúc động lòng người. từ đó, ta cảm nhận diều lướn lao nhất là người cha muốn truyền lại cho đứa con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ với quê hương cao đẹp và niềm tin con bước vào đời:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”.

    Hành trang của người con mang theo khi “lên đường” không có gì khác ngoài niềm tự hào về quê hương, nguồn cội cùng với ý chí, quyết tâm và hi vọng lớn lao về một ngày mai tươi sáng. Người con lên đường khắc sâu lời cha dặn và không ngừng nhắc nhở mình thực hiện điều tâm nguyện ấy. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.

    Bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví von sinh động, giọng điệu thiết tha trìu mến, nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm đầy khát vọng làm người, đoạn thơ ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.

    Y Phương đã rất tinh tế khi lựa chọn hình ảnh và giọng điệu khi biểu đạt. Hình như ông đã không hề “mĩ lệ hóa” hay tô vẽ gì thêm cho hình ảnh thơ. Cứ thế, rất tự nhiên, hình ảnh núi non và “người đồng mình” đi vào thơ ông một cách chân thực, hồn nhiên mà sâu sắc đến kì lạ.


2. Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con mẫu 2

   Lấy cảm hứng từ tình yêu thương con và ước mong thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, phát huy những truyền thống của quê hương, dân tộc, nhà thơ Y Phương đã sáng tác bài thơ “Nói với con”. Bài thơ xuất phát từ tình cảm gia đình, mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp của quê hương, nhắn nhủ người con hãy phát huy truyền trống ấy.

    Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng.

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

    Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân thương, thân mật và gần gũi đến thế, trong phạm vi nhỏ đó là người cùng một bản, một vùng, rộng hơn đó là người cùng dân tộc cùng một đất nước. “Thương lắm” ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu thương mà còn chứa đựng sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau của con người. “Cao” và “xa” là khoảng cách của đất trời, cũng chính là những thử thách khó khăn mà người đồng mình phải chiến đấu. Người đồng mình tuy sống trong khó khăn, đói khổ nhưng biết cách vượt lên tất cả, vẫn nuôi chí lớn và không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên. 

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

    Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói nhưng cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Ngược lại phải lấy đó làm động lực để biết phấn đấu, biết vươn lên trong cuộc sống, làm nên nghị lực phi thường trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống như sông, suối nghĩa là sống một cách lạc quan và mạnh mẽ, sống thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng chính niềm tin, thực lực của mình. “Người đồng mình” sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ và khoáng đạt, gắn bó chung thủy với quê hương, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và chiến đấu hết mình với niềm tin và ý chí của mình. Lên thác rồi lại xuống ghềnh, không màng mệt nhọc mà chỉ vững tin vào ngày mai tươi sáng, khi đó mọi khó khăn, đói nghèo sẽ tan biến. 

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

    Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” là ẩn dụ cho những cốt cách giản dị, mộc mạc, chất phác thật thà của người dân tộc. Tuy cũng chỉ là con người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề “nhỏ bé”. Truyền thống đục đá kê cao nhà của người đồng mình mang ý nghĩa kê cao nhà cũng là kê cao quê hương, tự hào về quê hương và tự tay mình xây nên những truyền thống tốt đẹp làm cho quê hương giàu đẹp vươn lên. Ngược lại quê hương chính là cội nguồn cho những phong tục tập quán để nâng đỡ, làm động lực cho con người thêm tin yêu, tự hào. 

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”

    Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin khi con bước vào đời. Đã đến lúc con phải trưởng thành, rời xa quê hương để phát triển, đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi khó khăn, con hãy vững tin và phải luôn tự hào với truyền thống của quê hương, hãy tự tin rằng mình không nhỏ bé mà phải vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” là lời nhắn chứa chan tình yêu thương, nồi niềm và sự kỳ vọng con sẽ làm rạng rỡ, vẻ vang quê hương, đất nước.

    Với giọng điệu thiết tha, trìu mến và đầy tình yêu thương, nhà thơ Y Phương đã thành công lan tỏa lời tâm tình của mình đến với mọi người. Hình ảnh “người đồng mình” vừa nổi bật lại thật thân thương trìu mến, ai cũng nhận ra mình cũng chính là “người đồng mình”. Từ đó thêm yêu quê hương đất nước, thêm sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống, tự hào về truyền thống cao đẹp và vững tin sẽ xây dựng quê hương giàu đẹp bằng chính bàn tay của mình.


3. Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con mẫu 3

     Y Phương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, ông sinh ra và lớn lên tại tỉnh Cao Bằng- cái nôi văn hóa của người Tày. Có lẽ chính vẻ đẹp của non nước Cao Bằng hùng vĩ, nên thơ cũng như bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Tày đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, góp phần làm nên chất nghệ sĩ trong ông. Với quan niệm nghệ thuật đa chiều cùng cảm quan tinh tế của người nghệ sĩ, ông đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ hay. Một trong số đó phải kể đến thi phẩm Nói với con- một bông hoa trong sáng và tinh khôi viết về cuộc sống và con người nơi miền Đông Bắc của Tổ Quốc. Khổ hai bài thơ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của “người đồng mình”.             

    Với người cha, tâm hồn con không chỉ được nuôi dưỡng bởi văn hóa độc đáo của quê hương, được bao bọc, chở che bởi thiên nhiên thơ mộng, hữu tình mà hơn thế con còn được sống trong tình cảm nồng hậu, nghĩa tình của người quê hương. Cơ thể con, tiếng nói con, sức sống của con được bồi đắp bao vẻ đẹp phẩm chất của “người đồng mình”:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

    “Người đồng mình” là cách gọi gần gũi, thân thiết chỉ những người cùng sinh sống trên một mảnh đất, vùng quê. “Người đồng mình" - nghe sao thân thương đến lạ!, thật gần gũi, thật tự nhiên biết bao. Ở đây, mọi người đều sống chung trong một gia đình lớn, luôn bảo vệ và chia sẻ với nhau, thấu hiểu cả những nhọc nhằn vất vả, những mong ước và chí nguyện của nhau. Người đồng mình “thương lắm ”, "thương" bởi cuộc sống còn nhiều gian khó, “thương” bởi những nhẫn nại, âm thầm, "thương" cả ý chí, bản lĩnh của người đồng mình trên mảnh đất quê hương. "Thương" ở đấy chính là sự cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia. 

“Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

    Tác giả đã sử dụng các tính từ “cao”, “xa”- những tính từ đặc tả không gian địa lý của vùng đất Cao Bằng, nơi mà "người đồng mình" đang sống. Một chốn không gian xa phố thị phồn hoa, nơi đây chỉ có núi cao hiểm trở. Tính từ “cao”, “xa” còn để chỉ nỗi buồn và chí lớn của con người nơi đây. Người đồng mình nén “nỗi buồn”  ở lại để “chí lớn” đi xa. Tác giả đã mượn chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, thể hiện sự bền gan, vững chí của “người đồng mình”. Lời thơ giản dị thấm đẫm lòng tự hào của người cha khi kể về "người đồng mình", qua đó, ta còn thấy được một trái tim nhạy cảm, một tâm hồn đồng điệu của tác giả với nhân dân mình, hiểu và thương cuộc sống của nhân dân mình. Từ tiếng thơ tự hào ấy, tác giả cất tiếng lòng mình gửi gắm mong muốn đến con, rằng con hãy sống một cuộc đời bản lĩnh, sống ân nghĩa, thủy chung, tiếp nối những giá trị vĩnh cửu của “người đồng mình”: 

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”.

    Ba tiếng “dẫu làm sao” chất chứa cả những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống, chứa đựng cả những đấu tranh tâm lý bên trong người cha. “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” là một nốt lặng thiết tha nhưng cũng là một tiếng nói đầy quyết liệt, mong muốn con hãy gìn giữ và phát huy những giá trị làm người cao quý của “người đồng mình”. Những tính từ “gập ghềnh”, “nghèo đói”, thành ngữ” lên thác xuống ghềnh” càng khắc họa những gian nan, trắc trở, những bấp bênh, vất vả của cuộc sống. Đó là những thử thách mà bất kì ai cũng sẽ phải trải qua, bởi vậy mà cha mong con hãy dùng bản lĩnh để vượt qua. Điệp từ “sống” đứng đầu câu kết hợp với các từ phủ định “không chê” đã khẳng định một  thái độ sống đầy tích cực trên hành trình cuộc đời. Hình ảnh so sánh độc đáo “sống như sông như suối’ mang trong đó cả một lời khuyên ý vị của cha cho con, rằng con hãy sống một cuộc đời tự do, rộng mở, dẫu bao thác ghềnh vẫn vượt qua, tưới mát đời bằng những giọt trong xanh.

"Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục."

    “Người đồng mình” được tiếp tục sử dụng khẳng định sự gắn kết thiêng liêng của con với con người quê hương mình. Biện pháp tương phản qua hai hình ảnh “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé” đầy mộc mạc, giản dị  càng tô đậm ý chí, nghị lực phi thường của người lao động nơi đây. Ở họ luôn khao khát được vươn ra biển lớn, luôn sống với những ước mơ, hoài bão của mình khát khao vươn đến những điều tốt đẹp. Nét vẽ gân guốc “người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” khắc họa rõ nét tinh thần tự lực, tự cường, dựng xây quê hương giàu đẹp, bằng bàn tay và khối óc của mình họ hun đúc nền văn hóa độc đáo  cho chính dân tộc mình. Quê hương cũng vậy, càng giàu đẹp, thịnh vượng thì đời sống con người càng thay đổi, vui tươi và hạnh phúc. Những câu thơ cuối khổ là khúc hát lên đường cũng là lời nhắn nhủ đầy tâm tình của cha:

"Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con."

    Giọng diệu thiết tha, trìu mến, chất chứa tin yêu của cha trên hành trình con đi phía trước. “Lên đường” - hành động ấy con phải thực hiện trong tư thế chủ động, lấy phẩm chất của “người đồng mình” để vượt gian khó trên mỗi bước đường con đi. Chúng ta có thể còn “thô sơ” còn nghèo khó, còn cực khổ, còn vất vả, còn thiếu thốn nhưng không bao giờ “nhỏ bé”. Chúng ta sống trên đá, mang vóc hình của núi đá, vì vậy hãy mang cả ý chí mạnh mẽ,  sự cứng cỏi và kiên cường của đá núi để tự tin bước vào đời. Hãy sống một cuộc đời đường hoàng, bản lĩnh, tự tin để xứng đáng với gia đinh đình, với quê hương mình. 

    Bằng thể thơ tự do, giọng điệu thiết tha, trìu mến, những hình ảnh giản dị, mộc mạc, mà chân thực, giàu chất thơ, Y Phương đã viết nên những vần thơ đầy đẹp đẽ. Đoạn thơ đã gợi nhắc trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với con người, với truyền thống đẹp đẽ của quê hương, dân tộc mình và nuôi dưỡng ý chí vượt lên khó khăn để vững bước vào đời. 


4. Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con mẫu 4

    Trong nền văn học Việt Nam, Y Phương là nhà thơ có phong cách sáng tác vô cùng độc đáo qua tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. Đặc biệt, qua khổ thơ thứ hai, tác giả đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó. 

    Bằng lời nói giản dị, mộc mạc gợi bao yêu thương và gần gũi, trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của người đồng mình. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ thông qua cụm từ “Người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là phẩm chất của quê hương. Đặc biệt, trong khổ thơ, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi đã được tác giả vận dụng qua câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”.  Bằng lối nói cân xứng, nhịp nhàng, đăng đối giữa hai câu thơ, kết hợp sử dụng những tình từ vốn để diễn tả khoảng cách không gian như “cao”, “xa”, nhà thơ Y Phương đã khắc họa thành công vẻ đẹp của “người đồng mình”. Đó là tầm cao của lối sống tâm hồn và ý chí nghị lực phi thường của người đồng mình. Dù cuộc sống phải trải qua nhiều khó khăn, cực nhọc, nhưng họ vẫn giữ được sự lạc quan cùng niềm vui:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như núi

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

   Thông qua biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp hình ảnh so sánh cụ thể “Sống như sông như suối” cùng việc vận dụng các kiểu câu ngắn dài khác nhau, cuộc sống cùng phẩm chất của “người đồng mình” đã được khắc họa rõ nét. Dẫu phải trải qua nhiều khó khăn, “lên  thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống khoáng đạt, mạnh mẽ như sông như suối. Đặc biệt là luôn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm vui đối diện và vượt qua mọi thử  thách, gian nan bằng ý chí, nghị lực và niềm tin để gắn bó với quê hương:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

    Thông qua việc sử dụng động từ “tự đục đá kê cao”, câu thơ đã diễn tả hành động dựng nhà dựng cửa quen thuộc của người miền núi. Tuy nhiên, quê hương vốn  là một khái niệm trừu tượng, bởi vậy hình ảnh trên còn là biểu tượng ẩn dụ cho tinh thần tự tôn, ý thức bảo vệ cội nguồn của đồng bào miền núi. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đang làm nên những phong tục, tập quán tốt đẹp cho quê hương. Câu thơ đã chất chứa niềm tự hào của người cha khi nói về quê hương của mình.

    Qua khổ thơ thứ hai, chúng ta còn thấy được ước mong của người cha.  Qua câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn”, tác giả đã thể hiện mong muốn con hãy kế tục xứng đáng những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Đặc biệt, người cha mong muốn người con đem những truyền thống tốt đẹp của quê hương trở thành hành trang để con vững bước vào đời:

Con ơi, tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con

    Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc cùng giọng điệu thiết tha, trìu mến, lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha đã được thể hiện một cách trực tiếp. Dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, và con người chỉ “thô sơ da thịt” nhưng con “không bao giờ nhỏ bé được”. Câu thơ thể hiện mong muốn người con luôn vững bước trên đường đời bởi hành trang của con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con vẫn luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình. Đồng thời, người cha mong con hãy tự tin bước vào đời, hãy kế tục và phát huy xứng đáng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lời cha dặn là lời gửi trao thiêng liêng là lời chuyển giao của các thế hệ người Việt Nam.

    Như vậy, thông qua khổ thơ thứ hai, tác giả Y Phương đã khắc họa thành công những vẻ đẹp, phẩm chất của con người, quê hương. Qua đó gửi gắm bức thông điệp về ý chí, nghị lực cùng niềm tin, ước mong con vững bước, trưởng thành và sống xứng đáng với quê hương. Tình yêu thương đối với người con đã hòa với tình yêu dân tộc, quê hương, tạo thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.

---/---

     Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Nói với con mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 18/09/2021 - Cập nhật : 20/09/2021