logo

Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn nhất

Để tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn nhất sau đây. Hi vọng với các bài văn mẫu đặc sắc này các em sẽ có thêm tài liệu, cách triển khai để hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất!


Dàn ý Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Mở bài:

– Giới thiệu một vài nét về tác giả, tác phẩm.

– Dẫn dắt vô đề, trích dẫn khổ thơ cuố

2. Thân bài:

* Hình ảnh cả khổ thơ đều là sự thiếu thốn, nhưng thiếu thốn lại càng thêm thiếu thốn hơn khi mà:

+ Không có kính

+ Không có mui xe

+ Không có đèn xe

+ Thùng xe bị xước

– Biện pháp nghệ thuật

+ Điệp ngữ: không có

+ Liệt kê: kính, đèn, mui, thùng

=> thể hiện sự tàn phá của chiến tranh và tổn thất nặng nề mà chúng ta phải chịu

– Tinh thần bất khuất, ý chí mạnh mẽ của những người lính lái xe

+ Vẫn lạc quan và đầy tự tin

+ Vượt qua mọi khó khăn, giữ vững tay lái cho bánh xe lăn đều

– Hình ảnh trái tim ở cuối bài thơ

+ Là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo

+ Lòng yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc

+ Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

+ Chính tình yêu, sự quả cảm của các anh là yếu tố quan trọng làm nên thành công cho kháng chiến

* Em cũng có thể liên hệ mở rộng

– Hình ảnh những người lính trong thơ của Chính Hữu: họ là những người lính xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận

* Khái quát lại nghệ thuật trong khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

– Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị

– Hình ảnh tả thực, chọn lọc

– Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ

3. Kết bài:

– Khái quát lại vấn đề trong đoạn thơ và nêu cảm nhận của em về nó.


Bài văn mẫu Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính


Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài mẫu 1

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ. Ông sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm Hà Nội liền gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn. Đây là thời kỳ chiến tranh gian khổ nhất phải nếm mật nằm gai nơi rừng hoang nước độc. Tuy nhiên, trong chiến tranh, người chiến sĩ ấy vẫn yêu đời, lạc quan và sáng tác văn thơ. Một trong những  tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tiểu đội xe không kính. Bài thơ nói về hình ảnh người lính thời chiến và những khó khăn vất vả, đồng thời cũng ca ngợi tinh thần chiến đấu quả cảm, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc. Đặc biệt khổ thơ cuối bao quát toàn bộ nội dung bài thơ và nói lên tấm lòng người chiến sĩ.

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Bài thơ tiểu đội xe không kính đã đưa vào một hình ảnh vô cùng mới lạ, độc đáo nhưng lại là hiện thực thời chiến. Khi chiến tranh bom đạn “không có mắt” dội xuống cánh rừng trường sơn, người chết, xe hỏng và chuyện kính vỡ là bình thường. Một chiếc xe khi ra chiến trận được trang bị đầy đủ, nhưng đã vào chiến đấu cũng mang đầy thương tích không kém gì người lính. Và đó là thương tích về kính: Xe không có kính!

Nguyên nhân sâu xa là do bom giật bom rung nên kính vỡ mất rồi. Điều này cho thấy sự tàn ác của kẻ thù và những vất vả gian khó mà chiến sĩ, bộ đội cụ Hồ ngày ngày trải qua. Vốn dĩ là một chiếc xe đầy đủ kính mà giờ đây đã mất rồi, thậm chí, ngoài kính ra thì xe còn thiếu vô số bộ phận khác:

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Hai câu thơ thể hiện rõ những hậu quả của bom đạn, chiến tranh, nó đã làm chiếc xe méo mó không còn nguyên vẹn. Những chiếc kính bị vỡ hoàn toàn, mất đèn, mất mui xe… Nhưng những mất mát ấy không hề làm cho tinh thần người lính bị xuống dốc. Khi đã dấn thân ra chiến trường là xác định cống hiến hết mình vì dân tộc, sẵn sàng hi sinh. Đó là lí do tâm thái vô cùng ung dung, có một sự chuẩn bị kĩ càng, một sự kiên định đến ngưỡng mộ. Bởi vì họ đã mang trong mình một chân lí, đó là chân lí giải phóng đất nước, mang lại sự bình yên cho dân tộc:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Phân tích khổ cuối bài thơ về tiểu đội xe không kính – Đây chính là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng mà Phạm Tiến Duật muốn nói đến. Những khó khăn trong chiến tranh chỉ làm nổi bật lên ý chí và khát vọng của người lính. Từng câu thơ của ông rất vui tươi, hình ảnh nào cũng sáng, cũng đẹp cho dù là xe không kính, không đèn, không mui xe thì người lính vẫn không hề buồn hay run sợ. Bởi trong trái tim họ luốn có một Miền Nam phía trước, tinh thần xẻ dọc trường sơn đi cứu nước luôn trường trực trong tim không bao giờ mất.

Chính trái tim người lính, trái tim của yêu thương đã giúp họ đi qua những gian khó chiến tranh, đã khiến họ thảnh thơi, ung dung bước qua chiến tranh và không hề run sợ. Chính tình yêu cao cả đã chiến thắng tất cả. Những người lính vô danh nhưng lại chính là những người anh hùng vĩ đại, bước ra chiến trận mà ung dung như trở về nhà. Đây là vẻ đẹp sâu thẳm, một vẻ đẹp mà khiến thế hệ trẻ phải nghiêng mình kính cẩn!

Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn nhất

Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ, có rất nhiều bài thơ ca ngợi về tinh thần người lính cụ Hồ như:

Các đồng chí ơi, xung phong!

Người cắt dây thép gai đã cắt xong

Ðứng dậy nghe đất nước núi sông mình

bao năm cắt chia đang liền lại.

(Người cắt dây thép gai – Hoàng Nhuận Cầm)

Hay

Hay Trong căn hầm mùi thuốc súng mồ hôi

Tim anh đập không sao ghìm lại được

Gió nồng nàn hơi nước

Biển như một con tàu sắp sửa kéo còi đi

(Phan thiết có anh tôi – Hữu Thỉnh)

Nhưng có lẽ hiếm bài thơ nào lại có sự vui tươi trong từng câu từ như bài thơ Tiểu đội xe không kính. Bài thơ dù nói lên những khó khăn chiến tranh nhưng không mang màu sắc u ám mà thể hiện tinh thần lạc quan, nhìn về phía trước, một lòng tin tưởng con đường cách mạng.

Khổ cuối bài thơ đã thể hiện một con người với cốt cách cao đẹp, những tấm lòng nhiệt huyết, giàu đức hi sinh, lòng nhân đạo của người lính cụ Hồ. Bài thơ đã truyền cảm hứng cho những thế hệ trẻ, sống và cống hiến, xây dựng đất nước tươi đẹp và vững mạnh hơn, để xứng đáng với hi sinh của những người chiến sĩ năm xưa.


Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài mẫu 2

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca" bởi thi sĩ đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại ấn tượng thật thú vị, đó là "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ Trường Sơn thời chống Mĩ.

Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe Trường Sơn của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập "Vầng trăng - Quầng lửa". Hình tượng thơ hết sức độc đáo: những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối bài thơ, tác giả đưa ra một ý tưởng thật bất ngờ - đó là "trái tim cầm lái"

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo "Không có kính không phải vì xe không có kính" bởi vì: "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Thật là đơn giản ! Chiến tranh bom đạn tàn phá. Xe không kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác giả một lần nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ:

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Đã không kính - gió, bụi, mưa tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại không có đèn, rồi không có mui xe thùng xe có xước. Một hình ảnh trần trụi do chiến tranh gây nên. Người lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong mạo hiểm, phiêu lưu. Tất cả đều vượt qua bởi:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ vui nhộn chưa hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Cả nước lên đường đánh Mỹ vì Miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe... Trái tim rực lửa căm thù giặc Mỹ và nóng bỏng yêu thương đồng bào miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mỹ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc .

Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mỹ hy sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.


Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài mẫu 3

Trong chặng đường văn học giai đoạn 1945 – 1975, cùng với rất nhiều nhà thơ trẻ khác Phạm Tiến Duật cũng mạnh dạn góp ngòi bút của mình vào vườn thơ ca kháng chiến. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ông đã phần nào khẳng định tài năng, trách nhiệm của mình trước vận mệnh của dân tộc. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh của những chiếc xe không kính cùng phong thái ung dung ngang tàng của những người lính lái xe. Và khép lại bài thơ là ý chí bền bỉ chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Lời thơ tựa như lời kể chuyện, kể thêm về cái khốn khó của một thời chiến đấu không thể nào quên. Với ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, những mốc chiếc xe không chỉ không có kính mà còn hơn thế là:

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước”

Cùng với điệp ngữ “không có” cùng một loạt hình ảnh liệt kê “thùng xe, mui xe, đèn xe” giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn cái ác liệt nơi chiến trường. Giờ đây, xe không chỉ không có kính mà xe còn không có đèn rồi lại không có mui xe, thùng xe thì bị xước trở nên biến dạng, xấu xí. Chiếc xe bỗng trở nên trần trụi và dị dạng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trái ngược với hình dạng không ưa nhìn của những chiếc xe là tâm hồn phơi phới dậy tương lai của những người lính lái xe:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”

Dù cho ngoại cảnh có khốc liệt, vật chất có thiếu thốn như thế nào đi chăng nữa thì bánh xe vẫn lăn thẳng về miền Nam thân yêu. Phải chăng chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc đã thôi thúc, động viên những người lính trẻ cầm chắc tay lái vượt qua rào cản khó khăn và với họ thì:

“Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Dẫu có bao nhiêu gian khó thì cũng chỉ cần có “trái tim” là đủ. “Trái tim” nồng nàn yêu nước hay tinh thần lạc quan của người lính thì cũng vậy. Nó đã vượt lên cái khốn khó “không đèn, không kính, không mui xe, thùng xe xước” để hóa thành tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hình ảnh khép lại bài thơ lại có sức lan tỏa, làm sáng dậy một tình yêu đất nước sâu nặng. Mọi thứ có thể thiếu nhưng thứ duy nhất không thể mất đi chính là niềm tin vững vàng của người cầm lái. Chỉ có con người và chỉ có tình yêu mới có thể giúp cuộc kháng chiến của dân tộc thành công. Đến đây, câu thơ như đang biểu dương, ngợi ca những người lính lái xe, những anh bộ đội cụ Hồ.

Nếu như trong thơ của Chính Hữu, người lính trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận, họ bước vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn:

“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” 

hay:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá”

thì khi đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ta lại bắt gặp một thế hệ trẻ bước vào kháng chiến với niềm vui và tinh thần lạc quan, họ được giác ngộ về lí tưởng Cách mạng, họ là những người lính có học thức cao hơn, ý thức hơn về trách nhiệm của mình với vận mệnh của dân tộc.


Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài mẫu 4

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã ghi dấu vẻ đẹp người lính là vẻ đẹp ở tư thế của người ra trận đầy khốc liệt trộn không lẫn của tuyến đường vận tải có một không hai trên thế giới, với một khí phách lái xe bất chấp mọi bom đạn nắng mưa, gió bụi, đói ăn, đói ngủ. Bài thơ khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện rất hay trong khổ cuối bài thơ của bài thơ:

Không có kính rồi xe không có đèn 

Không có mui xe, thùng xe có xước .

Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

thơ dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh nhưng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột thịt. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt. Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần ”Không có kính rồi xe không đèn- không có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa lí giải bất ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.

Hai câu thơ :

Không có kính rồi xe không có đèn 

Không có mui xe, thùng xe có xước .

dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên nhiều lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc như những chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn.... Ấy vậy mà những chiếc xe như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Hai câu thơ đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn . Âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bời phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi.

Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ .Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam.

Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giầu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ Quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích?

Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ... mà là con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được.Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn nhất mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 12/02/2022 - Cập nhật : 13/02/2022