Huy Cận là gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới của nền văn học nước nhà, những sáng tác của ông để lại rất nhiều cảm xúc trong lòng bạn đọc, đặc biệt là bài thơ Tràng Giang. Sau đây, mời các em cùng Toploigiai tìm hiểu bài viết phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang với 2 mẫu hay nhất
- Có thể hiểu cấu tứ là linh hồn của toàn bộ tác phẩm, đây là nơi cung cấp cho độc giả một cách nhìn mới, một vị trí để quan sát toàn bộ tác phẩm, nhờ vào cấu tứ mà người đọc dễ dàng cảm nhận được bài thơ, thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
- Trong bài thơ Tràng Giang, cấu tứ được thể hiện rõ qua nhan đề của tác phẩm, đồng thời Huy Cận đã tạo nên sự liên kết giữa nhan đề Tràng Giang và toàn bộ mạch cảm xúc của bài thơ, hình ảnh con sông dài đã len lỏi và thấm nhuần trong từng con chữ.
- Ở đây không chỉ có một con sông mà con có con sông xúc cảm đang dập dìu trong lòng của Huy Cận, hai dòng sông ấy hoà làm một và tạo nên vẻ đẹp cho bài thơ.
- Huy Cận khéo léo sử dụng các từ “con nước, nước” kết hợp với các từ “cồn nhỏ, bờ xanh, bãi vàng…”
- Hình ảnh thơ vô cùng độc đáo và đặc biệt, tác giả mượn những hình ảnh của cơn sóng ngoài đời thực để nói lên cơn sóng lòng trong trái tim mình.
- Hình ảnh giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng lãng mạn và trữ tình.
- Thông qua những hình ảnh đặc biệt mà người đọc cảm nhận được những giá trị, những cảm xúc buồn bã, nuối tiếc của Huy Cận. Đồng thời còn thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, của dòng sông tươi đẹp.
- Các hình ảnh thơ tiêu biểu như “củi một cành khô”, “bèo giạt về đâu, hàng nối hàng”, “con thuyền xuôi mái nước song song”…
Giai đoạn năm 1930-1945 là sự phát triển vượt bậc của nền văn học Việt Nam với sự đóng góp của các nhà thơ mới, tiêu biểu phải kể đến nhà thơ Huy Cận. Nhắc đến Huy Cận, có người đã từng nhận xét rằng “Huy Cận lượm lặt những chút nỗi buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được…” Và Tràng Giang của Huy Cận chính là một tác phẩm như thế, một tác phẩm mà ông đã “lượm lặt những chút nỗi buồn rơi rác để sáng tạo”, đặc biệt qua bài thơ, người đọc không khỏi ấn tượng trước cấu tứ thơ và hình ảnh đặc biệt trong bài.
Huy Cận là một nhà thơ tài năng, đa tài với cái tôi vô cùng đặc biệt, không bị trộn lẫn bởi các nhà thơ cùng thời. Những sáng tác của ông trước Cách mạng tháng Tám thường mang những nét trầm buồn, u sầu nhưng sau Cách mạng thì đã có sự thay đổi, phong cách sáng tác của ông dần trở nên vui tươi, màu sắc và hạnh phúc hơn. Tràng Giang ra đời trong giai đoạn sáng tác trước của tác giả và được in trong tập thơ nổi tiếng Lửa thiêng.
Bàn về cấu tứ, người đọc có thể hiểu cấu tứ là linh hồn của toàn bộ tác phẩm, đây là nơi cung cấp cho độc giả một cách nhìn mới, một vị trí để quan sát toàn bộ tác phẩm, nhờ vào cấu tứ mà người đọc dễ dàng cảm nhận được bài thơ, thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Điều đặc biệt là nhan đề của toàn bộ tác phẩm là Tràng Giang, tức có thể hiểu là “con sông dài”, Huy Cận đã sử dụng hai vần “ang” liên tiếp làm cho con sông đã dài nay còn mở rộng ra hơn cả, tác giả đã miêu tả con sông ấy trong toàn bộ tác phẩm. Con sông là nơi khơi nguồn cảm hứng, là mạch cảm xúc chính của toàn bộ bài thơ. Hình ảnh con sông đã len lỏi vào từng câu chữ và thấm đẫm nỗi buồn, những cảm xúc đặc biệt của chính tác giả.
Lúc này, thông qua cấu tứ, người đọc nhận ra là có hai dòng sông đang cuộn trào, dòng sông Tràng Giang và dòng sông trong lòng của tác giả Huy Cận. Nhờ vào đây, người đọc đã dễ dàng liên kết, cảm nhận và đặt trọn vẹn cảm xúc của mình vào trong bài thơ, chính vì vậy mà những tâm tư, tình cảm của tác giả đã chạm đến trái tim bạn đọc. Huy Cận đã sử dụng lặp lại rất nhiều từ “nước”, “cơn nước” kết hợp với các từ “ cồn nhỏ, bờ xanh, bãi vàng..” để tạo nên sự đặc biệt cho tác phẩm.
Một tác phẩm hay và xuất sắc không thể thiếu sự đóng góp của những hình ảnh đặc biệt. Hình ảnh trong bài tơ Tràng Giang vô cùng giản dị và mộc mạc, nhưng cũng không kém phần trữ tình và hấp dẫn.
Hình ảnh thơ tiêu biểu “củi một cành khô” khiến người đọc không khỏi xót xa, nếu ngày xưa các tác giả thường sẽ lựa chọn những hình ảnh ước lệ tượng trưng như tùng, cúc, trúc, mai thì Huy Cận đã lựa chọn hình ảnh “củi khô”. Hình ảnh này không chỉ làm nổi bật sự héo úa, lụi tàn của củi mà còn là sự vô định, chênh vênh giữa dòng đời khi không biết phải đi đâu và về đâu.
Các hình ảnh cánh chim như chợ nặng bóng chiều đang “nghiêng cánh nhỏ” đã cho thấy được sự tương phản của cánh chim nhỏ nhơi với bầu trơi bao la và rộng lớn. Mây lớp đùn đùn lên như những “núi bạc” đã khiến cho ý của toàn bộ câu thơ được mở rộng và bao la, khiến người đọc ấn tượng mãi không quên.
Tràng Giang của Huy Cận xứng đáng là bài thơ hay nhất viết về đề tài thiên nhiên, nhờ vào cấu tứ và những hình ảnh đặc biệt trong bài thơ mà người đọc đã cảm nhận được nỗi buồn man mác, sự nuối tiếc và buồn bã của tác giả, đó chính là nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ gia đình, nhớ nhà da diết. Tác phẩm thật xuất sắc, đúng như Xuân Diệu đã từng nhận xét “Tràng Giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc”.
Bài của Bạn Bảo Ngọc - Sinh viên sư phạm Ngữ Văn Đà Nẵng
Tiếng "Tràng Giang" như làm truyền đạt âm thanh vang vọng của nỗi buồn tha thiết. Sự lặp lại này như một bản nhạc buồn, khiến cho nỗi buồn trở nên lâu dài và sâu sắc. Những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông mang đến cho không gian một tầng màu tâm trạng "buồn điệp điệp." Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong linh hồn của nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" làm tăng cường sự khắc khoải, tầng tầng lớp lớp của nỗi buồn, nối tiếp nhau mà không thể giải thoát. Dường như nhẹ nhàng, nhưng lại mang trọng lượng vô tận, thấm đẫm và lan tỏa trong từng cảnh vật.
Trong không gian rộng lớn, mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" nổi bật, tạo ra bức tranh của sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, trôi dạt theo dòng nước, lênh đênh giống như nhân vật thi sĩ, trống vắng, lẻ loi giữa cuộc sống hối hả, bị xô đẩy và trôi chảy theo dòng đời. Hình tượng này làm cho nỗi cô đơn và sự phó mặc trở nên rõ ràng và chạm đến lòng người, tạo nên một không gian xô bồ, nhưng đồng thời là đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Câu thơ mở đầu bức tranh thơ "Tràng Giang" không chỉ là một giới thiệu về tên gọi của tác phẩm mà còn là một cánh cửa mở ra một không gian mênh mông, hùng vĩ. Sự lặp lại của từ "tràng giang" và điệp vần "ang" không chỉ tạo ra một âm thanh đặc trưng, mà còn tạo nên một bức tranh tĩnh lặng của dòng sông trải dài. Hai tiếng "tràng giang" không chỉ là tên của một dòng sông, mà còn là biểu tượng của một không gian rộng lớn, mang theo nó nhiều cảm xúc và nỗi buồn. Con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông không chỉ là hình ảnh đẹp mắt của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của nỗi buồn. Cách tác giả diễn đạt "buồn điệp điệp" không chỉ là sự lặp lại của từ "buồn" mà còn là sự chọn lựa từ ngữ tinh tế để làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc. Từ "buồn điệp điệp" như một âm thanh khẽ nhẹ, nhưng chứa đựng nhiều tầng cảm xúc, làm cho nỗi buồn trở nên thêm khắc khoải và đậm sâu.
Hình ảnh "con thuyền xuôi mái" là biểu tượng của sự lẻ loi và cô đơn trong cuộc sống. Con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước không chỉ là hình ảnh của sự lênh đênh và phiêu bạt, mà còn là tượng trưng cho tâm hồn của người thi sĩ. Người sáng tác đang miêu tả bản thân mình như một con thuyền lẻ loi, trống vắng, bơ vơ giữa dòng đời hối hả. Hình ảnh này không chỉ diễn đạt sự cô đơn của tác giả mà còn đánh dấu một nét buồn nằm sâu trong bức tranh thơ.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Câu thơ lặp lại nhan đề "Tràng Giang," với cách điệp vần tinh tế, mở ra một không gian rộng lớn, với dòng sông trải dài. Hai tiếng "Tràng Giang" như nhấn mạnh và khuếch đại âm thanh của nỗi buồn sâu sắc. Những con sóng nhẹ trên dòng sông tạo nên không khí "buồn điệp điệp," làm tăng thêm chiều sâu cho nỗi buồn trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" không chỉ làm đậm thêm cảm xúc buồn bã mà còn làm nổi bật sự khắc khoải, lớp lớp, nối tiếp nhau, không có hồi kết. Dường như nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và trầm lắng, nỗi buồn tràn ngập từng khung cảnh.
Trong không gian mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" làm nổi bật sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, lênh đênh trên dòng nước, tượng trưng cho người thi sĩ, trống vắng, lẻ loi giữa cuộc sống hối hả. Nhưng thuyền không phải chỉ là phương tiện, mà còn là biểu tượng cho sự phó mặc, lặng lẽ chấp nhận sự xô đẩy, chảy trôi của dòng đời. Hình ảnh này không chỉ là sự đẹp đẽ trong cảnh vật mà còn là sự đầy ý nghĩa và sâu sắc, khiến cho người đọc cảm nhận được tầng tầng cảm xúc đan xen giữa con người và thiên nhiên.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều
Câu thơ lặp lại nhan đề "Tràng Giang" không chỉ là việc sử dụng cách điệp vần tinh tế, mà còn là một phép màu đưa người đọc vào một không gian mênh mông với dòng sông trải dài. Hai tiếng "Tràng Giang" như là âm thanh biểu tượng của một nỗi buồn tha thiết, một sự thương cảm sâu sắc. Những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông không chỉ là cảnh đẹp tự nhiên mà còn là hình ảnh của nỗi buồn "điệp điệp." Nỗi buồn của dòng sông không chỉ là nỗi buồn của thiên nhiên mà còn là nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" không chỉ làm đậm thêm cảm xúc buồn bã mà còn tạo ra một sự khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, như một dòng chảy không ngừng của cảm xúc. Đó không chỉ là cảm giác nhẹ nhàng mà còn là trọng lực nặng nề, thấm đẫm, và lan tỏa từng thước phim của cảnh vật.
Nổi bật giữa không gian lớn mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" là biểu tượng của sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, lênh đênh trên dòng nước, không chỉ là hình ảnh của một phương tiện giao thông mà còn là biểu tượng của con người, người thi sĩ, đang trống vắng và lẻ loi giữa cuộc sống hối hả. Nhưng con thuyền không chỉ đơn thuần là phương tiện di chuyển mà còn là biểu tượng của sự phó mặc, lặng lẽ chấp nhận sự xô đẩy, chảy trôi của dòng đời. Hình ảnh này không chỉ đẹp mắt trong khung cảnh tự nhiên mà còn chứa đựng sự đầy ý nghĩa và sâu sắc, tạo nên một tác phẩm thơ đẹp đẽ và lôi cuốn.
“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu”
Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá tạo nên một chiều kích mênh mông của không gian trong tác phẩm. Hình ảnh "Sâu chót vót" không chỉ gợi lên sự thăm thẳm và huyền bí mà còn tận dụng chiều sâu của từ ngữ để tăng cường hiệu ứng. Đây không chỉ là một chiều sâu về khoảng cách vật lý mà còn là chiều sâu của tâm hồn, như một vùng trí tưởng không gian mênh mông, đầy những khó khăn và bí ẩn. Mỗi từ ngữ "rộng," "cao," "sâu" đều là những chiều kích tăng cường cho không gian, làm cho cảnh vật trở nên buồn vắng và lẻ loi. Sự mở rộng của không gian khiến nỗi buồn mở rộng theo chiều kích của nó, như một sự thấm sâu vào từng hơi thở.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo là biểu tượng của sự vô định và lênh đênh. Những chiếc cánh bèo trôi dạt "hàng nối hàng" mà không có nơi nào bấu víu, chẳng chốn trở về, như một hình ảnh ẩn dụ cho những số phận người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng trong thế giới lo lắng và không chắc chắn của thời kỳ đó. Dòng sông mênh mông, dài rộng, không có chuyến đò nào đi qua, không có cây cầu nào bắc ngang, tất cả những điều này như thách thức lòng người khao khát giao cảm, hy vọng một sự kết nối với con người. Tất cả như là một cuộc đối đầu với tâm trạng cô đơn, một sự khát khao sự giao cảm, sẻ chia, mà cuối cùng lại không có một chút tình người nào để chia sẻ.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.
Bầu trời mênh mông, với những đám mây cao trắng, được phản chiếu dưới ánh mặt trời, tạo nên một bức tranh tuyệt vời với ánh bạc lấp lánh. Động từ "đùn" không chỉ miêu tả sự vận động mạnh mẽ của cảnh vật mà còn thể hiện sự sôi động, hứng khởi. Những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ, như là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tuyệt vời. Giữa không trung, một cánh chim bé nhỏ nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương, tạo nên hình ảnh cô đơn và duyên dáng. Sự đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ không chỉ làm tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng mà còn thể hiện sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước vẻ đẹp vô tận của vũ trụ.