logo

Phân tích bài Tây Tiến học sinh giỏi

Tuyển tập Phân tích bài Tây Tiến học sinh giỏi cực hay, chi tiết, đầy đủ nhất dành cho các bạn học sinh giỏi và thầy cô giáo chuyên văn.


Phân tích bài Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 1

Phân tích bài Tây Tiến học sinh giỏi nâng cao

      Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.

      Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

      Nhà thơ gọi tên sông Mã – cong sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến  như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết. cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

      Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nối nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:

“Ra về nhớ mãi chơi vơi”

Hay Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”

      Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bang khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dương như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.

      Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

      Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: ‘những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nết cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

      Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:

“Mường Lát hao về trong đêm hơi”

      Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, “hao về” là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nêm đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tết, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nết phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc  của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.  

“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xống

Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”

      Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bắc tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khửu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi sung chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

      Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước…Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên tây bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dương như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.

      Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:

“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”

      Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nếp mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhần thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ. 

      Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên sung mũ bỏ quên đời”

      Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bts gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

                             (Lê Anh Xuân)

      Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”

       Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đẫ viết về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sụ thấu hiểu của một người từng trải.

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

      Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi ma như vẫn còn tươi mới đây thôi.

      Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo từ bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”

      Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa,. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.

      Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hung và hào hoa:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”

      Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ ‘đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.

      Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người linh không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là mày xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.

      Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

      Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trùng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của  người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc..ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”

      Giữa lúc thơ ca giai đoạn khánh chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt  làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hung hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

      Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tang, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.

      Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:

“chúng tôi đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20

Thì làm gì còn tổ quốc”

                                               (Trường ca những người đi tới biển)

      Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Tây tiến gầm lên khúc độc hành”

“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

      Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Duộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con  người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hung tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những già mà các anh đã làm mãi trường tồn.

      Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.

      Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.


Phân tích bài Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 2

      Có những năm tháng đi vào lịch sử, trở thành kí ức không bao giờ quên của biết bao thế hệ. Đó chính là những ngày chiến đấu gian khổ trong công cuộc giành lại hòa bình cho dân tộc, đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Để lưu giữ những khoảnh khắc đó cho không chỉ thế hệ đã qua mà còn cho cả thế hệ ngày nay, mai sau thì biết bao nhà văn, nhà thơ đã sáng tác nên những tác phẩm tái hiện lại những năm tháng ấy. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chính là một trong những tác phẩm đó.

      Nhà thơ Quang Dũng là một thanh niên trí thức Hà Nội, tài hoa và lãng mạn. Ông mang trong mình một niềm yêu nước thiết tha, mãnh liệt và hăng hái tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến (1947-1948), Quang Dũng tham gia vào đoàn quân Tây Tiến và trở thành đại đội trưởng. Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm tiêu hao sinh lực địch. Tại nơi rừng thiêng, nước độc họ phải chịu biết bao gian khổ, đối mặt với biết bao hiểm nguy. Tuy nhiên những người lính với phần đông là những chàng trai Hà Thành vẫn thản nhiên đối mặt, vất vả, cực nhọc nhưng không làm mất đi chất anh hùng, hào hoa lãng mạn trong con người họ.

      Bài thơ trước kia đã từng mang tên Nhớ Tây Tiến để nói lên cảm hứng về Tây Tiến bắt nguồn từ nỗi nhớ, kỷ niệm về một quãng thời gian chiến đấu, về một miền đất với những người đồng đội, với những người dân bản xứ. Tên gọi ấy nhiều hơn chữ “nhớ” nhưng lại khái quát chung tâm trạng, tình cảm của tác giả khi viết lên tác phẩm này. Kỷ niệm gợi nhớ đầu tiên về Tây Tiến chính là hình ảnh:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

      Mặc dù nhan đề lược bỏ đi từ “nhớ” nhưng ở ngay hai câu thơ đầu tiên chúng ta đã bắt gặp từ “nhớ” đến hai lần. Một nỗi nhớ không được miêu tả cụ thể nhiều ít mà “nhớ chơi vơi”. Từ “chơi vơi” được Quang Dũng sử dụng rất hay, rất đắt bởi có thể khái quát nên một nỗi nhớ không định hình, không định lượng. Nó vừa mang đến cho chúng ta cảm giác nhẹ tênh nhưng đồng thời cũng làm cho con người ta cảm thấy nặng trĩu trong lòng, sự băn khoăn tự nhủ bởi vì không cân đo, đong đếm được. Với Quang Dũng thì đây là nỗi nhớ ám ảnh trong tâm trí khiến ông không bao giờ có thể quên được.

      Nhắc đến Tây Tiến thì không thể không nhắc tới thiên nhiên, núi rừng. Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ tới đó chính là dòng sông Mã và ở mười bốn câu thơ đầu đã toát lên vẻ đẹp hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Trước tiên thể hiện qua đoạn thứ nhất:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

      Một đoạn thơ ngắn ngủi với những từ ngữ thể hiện rõ sự hiểm trở của núi rừng. Trên con đường hành quân của các chiến sĩ, họ phải chịu nhiều gian khổ bởi địa hình “khúc khuỷu” với những dốc thăm thẳm. Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” được chia làm hai nửa và như xẻ đôi địa hình khiến cho người đọc liên tưởng tới một con đường với một bên là vách núi, một bên là vực sâu thăm thẳm. Chính cắt ngắt nhịp đó càng làm toát lên nỗi vất vả của người lính Tây Tiến. Trong bốn câu thơ trên có một hình ảnh mang đậm chất thơ đó là “súng ngửi trời”. Đứng trên địa hình trên cao, nơi mây mù che phủ, người lính hành quân với súng khoác trên vai, nòng súng chĩa lên trời khiến những người phía sau như thấy được súng đang “ngửi trời”. Qua bốn câu thơ ngắn ngủi với bút pháp lãng mạn, tác giả đã thành công dựng lên cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiểm trở, hùng vĩ nhưng lại mang nét lãng mạn. Đối lập với cái dữ dội của dốc núi, vực thẳm là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

      Bên cạnh sự hiểm nguy về địa hình thì những người lính còn phải đối mặt với những nguy hiểm khác:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

      Từ “chiều chiều”, “đêm đêm” gợi tới thời gian được lặp đi lặp lại liên tục chứ không phải một sớm một chiều. Hai câu văn như chìm trong tiếng kêu man rợ, sự rình rập của thú dữ và có thể đe dọa tới mạng sống bất cứ lúc nào vậy.

      Bút pháp lãng mạn còn được thể hiện qua việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

      Chỉ hai câu thơ ngắn ngủi đã làm toát lên sự khốc liệt của cuộc chiến. Nhà thơ Quang Dũng đã không giấu giếm sự hi sinh, mất mà mà thẳng thắn đối mặt. Trên con đường hành quân gian khổ ấy, không ít người đã hi sinh, ngã xuống. Sự hi sinh ấy được Quang Dũng khắc họa rất đặc sắc không phải mất đi mà là “không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Nó giống như việc những người lính đã chiến đấu gian khổ, mệt mỏi và đã đến lúc “nghỉ ngơi” nhường bước cho đồng đội và những thế hệ sau họ bước tiếp.

      Tuy nhiên phải đến khổ thơ tiếp theo thì hình ảnh những người lính Tây Tiến mới càng trở nên rõ nét hơn. Giữa gian khổ, giữa hi sinh nhưng vẫn không làm mờ đi nét hào hoa, lãng mạn của những người lính Tây Tiến giữa thiên nhiên miền Tây:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

      Những câu thơ chan chứa những âm thanh và hình ảnh sống động. Qua những vần thơ, tác giả đã không thể nào kìm nén nỗi nhớ bâng khuâng, nhớ “chơi vơi” về một miền kí ức chất chưa đầy những kỷ niệm. Trên con đường hành quân vất vả, gian khổ, những người lính có dịp được dừng chân tại một bản làng. Nơi đó hiện lên một viễn cảnh sinh hoạt cộng đồng vui tươi, thắm thiết đó là đêm hội đuốc hoa, là tiếng khèn, là những cô gái bản làng e ấp, hay đơn giản chỉ là những nắm cơm nếp xôi mà người dân bản làng đem tặng. Tất cả đều chứa chan tình cảm quân dân thắm thiết, làm vơi đi nỗi vất cả cực nhọc.

      Bên cạnh đời sống tình cảm đó thì hình ảnh những người lính Tây Tiến còn được khắc họa chân dung mang hình ảnh bi tráng giữa núi rừng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

      Cách miêu tả rất hóm hỉnh, tươi vui về nỗi gian truân, vát vả mà chính bản thân Quang Dũng cùng đồng đội đã trải qua. Giữa nơi rừng thiêng nước độc, ngoài việc phải đối mặt với địa hình hiểm trở, thú dữ thì họ còn phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng hiểm ác. Chính vì căn bệnh đó khiến tóc họ không thể mọc được, làn da xanh xao. Vẻ bề ngoài tưởng như tiều tụy, ốm yếu nhưng lại mang sức mạnh “dữ oai hùm” khiến kẻ thù khiếp sợ.

      Căn bệnh sốt rét rừng ấy cũng trở thành nguyên nhân mà nhiều người lính ngã xuống:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

      Những người lính Tây Tiến đều là những thanh niên tuổi đời còn trẻ nên được Quang Dũng gọi tên thành “đời xanh”. Họ rời xa quê hương với một lòng quyết tâm, chẳng ngại hi sinh, gian khó. Cách nói ước lệ “áo bào thay chiếu” như đang lãng mạn hóa sự hi sinh, các anh ngã xuống thậm chí manh chiếu để liệm cũng không có chỉ có chiếc áo đang mặc. Ấy vậy mà vẫn gợi lên cho người đọc sự hào hùng, oai phong. Thế rồi những mất mát, hi sinh ấy như được dồn nén, tích tụ và bộc phát thành tiếng gầm rung trời, chuyển đất: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

      Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ta phần nào cảm nhận sâu sắc được cuộc hành quân gian khổ, những hi sinh thầm lặng của những người chiến sĩ. Cũng qua đó ta thấy được nét tinh tế, lãng mạn của một nhà thơ đồng thời là người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Phân tích bài Tây Tiến học sinh giỏi - Bài mẫu 3

      Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông không chỉ đàn giỏi mà ông còn là một nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Tên tuổi của Quang Dũng gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Trước Tây Tiến Quang Dũng đã làm thơ và cũn có những bài thơ khá hay nhưng chỉ đến Tây Tiến nhà thơ mới ghi được dấu ấn trong mắt người đọc với phong cách thơ hồn hậu, trẻ trung. Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị cũ của mình. Bài được in trong tập  Mây đầu ô.

      Trước hết là bốn câu thở đầu tác giả mở ra một không gian của Tây Tiến xưa kia. Những hình ảnh mang đầy những nỗi nhớ thương được nhà thơ nén vào từng câu thơ ấy:

“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

      Không gian của con sông Mã hiện lên mang đầy những nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy chính là nỗi nhớ về một thời đã xa bên đơn vị Tây Tiến của nhà thơ. Những tiếng gọi tha thiết thân thương được cất lên vô cùng da diết. Không chỉ là không gian sông mã mà còn là không gian của những cánh rừng. Có thể nói hình ảnh đoàn quân Tây Tiến được in dấu trên những góc suối nẻo rừng. Tất cả những không gian ấy đều in dấu bước chân của họ và khi nhớ về nó nhà thơ nhớ hết cả. Từ “ơi” ở câu thứ nhất hiệp vần với từ “chơi vơi” ở câu thứ hai mang đến sự vang dội. Ta cảm tưởng rằng nỗi nhớ kia như dội vào không gian vọng về thời gian của những năm tháng chiến đấu kiên cường kia. Vần “ơi” mở rộng như càng thể hiện được sự da diết trong nỗi nhớ ấy. Hai địa điểm đầu tiên được nhà thơ nhắc đến là Sài Khao và Mường Lát. Người chiến sĩ Tây Tiến ra đi từ lúc sương vẫn còn giăng mắc trên những cảnh vật và khi về thì đêm đã lên hơi rồi. Cái từ “hơi” ấy cảm giác như nhẹ nhàng lắm. Phải chăng khi cái mệt mỏi kia khi về nghỉ lại cảm thấy nhẹ nhàng sau một ngày hành quân vậy. tác giả không nói hoa nở mà nói hoa về, không viết đêm sương mà lai viết đêm hơi. Như thế là nhà thơ đã chuyển từ thế giới thực sang thế giới ảo. Hình ảnh hoa kia không chỉ là hoa mà hình như còn là hình bóng của con người, hay có thể còn là ngọn đuốc của các anh chiến sĩ Tây Tiến.

      Đến những câu thơ tiếp theo nhà thơ tiếp tục thể hiện nỗi nhớ của mình qua hình ảnh những cuộc hành quân của đoàn quân Tây tiến. Đó là tất cả sự gian nan khó khăn trên con đường hành quân ấy:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

      Những vần trắc chiếm hơn nữa số từ trong những câu thơ cho thấy sự gian nan khúc khuỷu của đường hành quân. Vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ hiện lên làm nổi bật ý chí bất khuất của con người. Núi kia có cao nhưng không cao hơn ngọn súng của các đồng chí. Hàng ngày họ phải leo lên rồi lại leo xuống không biết bao nhiêu là núi. Hình ảnh cây súng chắc trong tay chĩa lên cao súng dường như đang chạm đến tận trời. Hình ảnh súng ngửi trời thật đẹp nó thể hiện ý chí kiên cường vượt qua khó khăn của người chiến sĩ. Ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống hiểm trở vô cùng. Những từ “thăm thẳm”, “ khúc khuỷu” thể hiện sự hùng vĩ hiểm trở của núi rừng tây Bắc. Không những thế nhà thơ ngắt nhịp câu thơ 4/3 thể hiện được tâm trạng của nhà thơ như bẻ gãy làm đôi, sự đối lập trong cùng một câu thơ đã lột tả hết con đường mà những chiến sĩ tây Tiến phải đi qua. Không những thế câu thơ thứ tư nhà thơ lại kết cấu toàn những vần bằng. Có thể nói ở trên trúc trắc đến đâu thì ở dưới lại nhẹ nhàng đến đấy. Câu thơ như thể hiện tâm trạng thoải mái nhẹ nhõm của những người chiến sĩ Tây Tiến sau những giờ khắc gian nan trên những dốc những đèo tây Bắc. Những hạt mưa xa kia cảm tưởng như sương muối bồng bềnh. Có thể nói đây chính là những câu thơ tuyệt bút trong bài thơ Tây Tiến.

      Sáu câu thơ tiếp theo Quang Dũng thể hiện chặng đường gian nan của đoàn quân Tây Tiến có những chiến sĩ đã ngã xuống, Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên trong những sự dữ dội của thú rừng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu màu em thơm nếp xôi”

      Hình ảnh những người chiến sĩ ngã xuống được nhà thơ nói giảm nói tránh là dãi dầu không bước nữa. Súng mũ ở đó anh gục lên mà bỏ quên đời. Đó là sự hi sinh thế nhưng với sự hồn hậu lãng mạn của mình nhà thơ nói giảm nó đi để không thấy nhiều sự hi sinh mất mát. Thiên nhiên Tây bắc lại hiện lên với những hình ảnh của buổi chiều những con thú dữ gầm thét, đêm đến thì cọp lại trêu người. Nhà thơ nói cọp trêu người cũng làm cho chúng ta sự trêu đùa của nhà thơ. Câu thơ như dí dỏm hơn thể hiện sự dữ dội của thiên nhiên nhưng không quá khắc nghiệt. Trước nhưng nỗi nhớ ấy nhà thơ lại cất lên nỗi nhớ Tây Tiến với Mai Châu thắm đẫm tình quân dân với thơm nếp xôi và cơm lên khói. Nhà thơ không dùng chữ ơi để thể hiện nữa mà lại là nhớ ôi. Điều đó cho thấy nhà thơ đang nuối tiếc một thời đã qua.

      Đến những câu thơ tiếp theo tình quân dân keo sơn gắn bó được Quang Dũng nhắc đến nỗi nhớ của mình:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

      Sau những cuộc hành quân gian nan vất vả những người Tây Tiến lại được sống trong tình quân dân thăm thiết chân tình. Những hội đuốc hoa được tổ chức cho những người chiến sĩ. Lúc ấy những cô gái Lào mang trên mình những bộ quần áo màu sắc rực rỡ khèn lên điệu nhạc thì nàng cũng e ấp múa. Niềm vui ấy giống như những món quà dành cho những người chiến sĩ. Những ngọn đuốc hoa lên đèn sáng bưng cả một khoảng không gian những người chiến sĩ ngồi quây quần bên đồng lửa vỗ tay theo điệu khèn và ngắm những cô gái Lào nhảy múa.

      Cuộc vui thì bao giờ cũng phải chia tay, quy luật của cuộc sống ở thê mà ở đây chiến sĩ Tây Tiến nghỉ ngơi rồi thì cũng phải đi hành quân tiếp. Và khi rời đi cảnh tượng chia tay diễn ra ở đây thật sự rất quyến luyến:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có thấy dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

      Một cảnh tượng quyến luyến chia tay. Sau những niềm vui ấy chiều hôm đó những người chiến sĩ Tây Tiến lại lên đường. Người dân thể hiện sự quyến luyến với những người chiến sĩ ấy khi chia tay bịn rịn khó tả. Đến cảnh vật nơi đây cũng nhuốm màu tâm trạng chia ly. Lau như có hồn để nẻo về bến bờ. Dáng người dân trên con thuyền độc mộc mà đưa cành tay vẫy chào những người chiến sĩ ấy. Dòng nước hoa đong đưa như thể hiện được cái hồn của cảnh vật, sự trôi chảy của thiên nhiên kia chính là sự trôi chảy của thời gian. Cuộc vui hết thì người chiến sĩ cũng phải đi làm nhiệm vụ.

      Không chỉ vậy Quang Dũng nhơ đến những hình ảnh của những người chiến sĩ Tây Tiến với chân dung khuôn mặt, ánh mắt:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

      Có thể nói chân dung người chiến binh Tây tiến hiện lên thật sự rất ốm thế nhưng lại không yếu. Họ không mọc được tóc là do cuộc sống nơi rừng thiêng nước độc rửa chân rung lông gội đầu rụng tóc hay cũng có thể đó chính là kết quả của những trận sốt rét rừng khiến cho chiến binh Tây Tiến rụng hết tóc. Quân xanh màu lá cũng có thể hiểu là màu xanh của trang phục lá cây, hay là sự xanh xao của sự thiểu thốn nơi chiến trường. Thế nhưng họ không yếu mà vẫn giữ oai hùm. Hình ảnh mắt trừng nhơ đến những dáng kiều thơm kia một thời được coi là mông rớt buồn rơi. Mắt trừng là do sự căm thù giặc mong muốn quét sạch bóng quân thù. Đó phải chăng cũng là hình ảnh thể hiện sự thức đêm của chiến binh vì nghĩ đến biên giới. Họ gian nan với cuộc chiến tranh những họ không quên nhớ đến những người thương của mình để được an ủi.

      Những câu thơ cuối cùng cất lên thể hiện những lý tưởng và bức tượng đài bi tráng của người chiến binh Tây Tiến:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

      Bức tượng đài bi tráng của người chiến sĩ được thể hiện qua hình ảnh những nấm mộ rải rác trên biên cương. Không có tên tuổi, không có quê quán chỉ là những nấm lồi lên trên mặt đất mà thôi. Họ thể hiện lý tưởng vì nước của mình. Họ không tiếc đời xanh mà chỉ muốn hết lòng vì đất nước. Khi chết đi may lắm thì cũng chỉ có manh chiếu quấn về với đất chứ không có áo bào nào cả. Cái đẹp của sự bi tráng ấy được thể hiện trang trọng qua hàng loạt các từ Hán Việt trong những câu thơ trên. Con sông Mã như khóc thương cho những người chiến sĩ qua đời, hay là chính giờ đây nó đang chơi vơi một mình nên nó gầm lên vì nhớ Tây Tiến. Những người lên Châu mộc thì đã chấp nhận đương đầu với cái chết cho nền cả khi chết đi hồn cũng về những nơi gắn bó gian nan của tình đồng đội, tình quân dân chứ không về xuôi nữa.

      Như vậy nhà thơ nhớ đến đơn vị cũ của mình mà thể hiện nó thành những câu thơ giàu cảm xúc. Không những thế trong những câu thơ ấy còn giàu chất họa chất nhạc khiến cho Tây Bắc hiện lên với nhưng vẻ đẹp và những gian nan hiểm nguy. Đồng thời thể hiện sự hào hùng của một thời bom đạn với đoàn binh tây Tiên ấy. Họ tuy không còn nữa nhưng bức tượng đài mà họ xây lên chắc chắn còn mãi trong những trái tim Việt Nam.

icon-date
Xuất bản : 08/05/2021 - Cập nhật : 15/11/2022