logo

Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu

Tham khảo Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!

1. Phân tích đề: 

- Yêu cầu của đề bài: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Đồng chí

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Đồng chí (Chính Hữu)

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Hệ thống luận điểm

- Luận điểm 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng.

+ Cùng chung cảnh ngộ xuất thân.

+ Cùng chung lí tưởng chiến đấu.

+ Sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui với đồng đội.

- Luận điểm 2: Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí

+ Sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau.

+ Sự đồng cam cộng khổ, sẻ chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính.

- Luận điểm 3: Bức tranh đẹp về tình đồng chí.

+ Hình ảnh thơ "đầu súng trăng treo" - biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu hiểu hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp.

+ Người lính, người đồng chí luôn kề vai sát cánh bên nhau làm nhiệm vụ.

3. Sơ đồ tư duy phân tích bài Đồng Chí

Sơ đồ tư duy phân tích bài Đồng Chí

Dàn ý Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Mẫu số 1

Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu ngắn gọn nhất

I. MỞ BÀI

Từ nội dung chủ yếu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp dẫn tới bài “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.

II. THÂN BÀI

Đoạn một: Nguồn gốc xuất thân của những người lính cùng từ các vùng nông thôn nghèo khổ (nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá) nên họ dễ thản thiết, trở thành tri kỉ của nhau. Giá trị câu thơ “Đồng chí”.

Đoạn hai: Hoàn cảnh riêng, tình cảm quê hương thiết tha sâu nặng của những anh bộ đội chân đất này. Cùng cảnh ngộ ở quê hương, hậu phương, gia đình nên họ trở thành đồng chí với nhau, cùng vượt qua mọi gian khổ, thiếu thốn.

Đoạn ba: Hình ảnh một đêm phục kích chờ giặc tới đầy thú vị: “Đầu súng trăng treo”.

Ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội Cụ Hồ.

III.  KẾT BÀI

Các hình ảnh thực, chi tiết thức, chắt lọc từ cuộc sống gian khổ, thiếu thốn khốc liệt tạo nên sức lay động lòng người về tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp.


Dàn ý Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Mẫu số 2

Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Chính Hữu và những đặc điểm chủ đạo trong sự nghiệp sáng tác của ông

– Giới thiệu khái quát về bài thơ Đồng chí (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…)

Thân bài

a, 7 câu thơ đầu: cơ sở tạo nên tình đồng chí đồng đội

– Họ là những người có chung hoàn cảnh xuất thân:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau

– Những người lính còn là những người cùng chung lí tưởng, hoài bão và mục đích.

  Súng bên súng đầu sát bên đầu

– Họ cùng đồng cam, cộng khổ, chịu bao thiếu thốn, vất vả, gian nan để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

b, 10 câu thơ tiếp theo: những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí đồng đội

– sự thấu hiểu, sẻ chia mọi nỗi niềm tâm sự, có cả niềm vui và có cả nỗi buồn.

     + “gian nhà không” vừa gợi nên cái dáng vẻ tiêu điều, xơ xác của làng quê nghèo vừa gợi nên niềm trống trải, cô đơn khắc khoải của người ở lại.

     + Hai chữ “mặc kệ” như thể hiện một cách rõ ràng sự dứt khoát ra đi vì mục tiêu cao cả của những người lính.

     + Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh ẩn dụ cho những người ở lại, cho quê hương của các anh. Quê hương đất mẹ nhớ các anh hay chính trong lòng những người lính bóng hình quê hương

– sự gắn bó, cùng nhau chia sẻ mọi vất vả, khó khăn, thiếu thốn trong cuộc chiến đấu trường kì của dân tộc.

     + Những nỗi nhọc nhằn của người lính là: “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”.

     + Khó khăn, vất vả là thế nhưng những người lính vẫn bên nhau, yêu thương nhau và cùng nhau vượt qua tất cả “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

c, 3 câu còn lại: biểu tượng đẹp của tình đồng chí đồng đôi

– Tác giả đã vẽ nên một hiện thực khốc liệt nơi chiến trường trong những năm kháng chiến chống Pháp

– Đầu súng trăng treo”. Đây là một hình ảnh mang ý nghĩa tả thực cho hình ảnh những người lính đứng canh gác nhưng hơn hết, nó là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, lạc quan và tàn đầy tinh thần chiến đấu của những người lính.

Kết bài

Khái quát giá trị nội dung, giá trị của bài thơ và nêu cảm nhận của bản thân.


Dàn ý Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Mẫu số 3

Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Chính Hữu:

+ Chính Hữu (1926 - 2007) là "nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm", trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Đồng chí:

+  Đồng chí (1948) là một trong những bài thơ đặc sắc của ông viết về tình cảm của những người lính gắn bó thiêng liêng trong kháng chiến.

Thân bài

* Cơ sở hình thành tình đồng chí

- Cùng chung cảnh ngộ, xuất thân:

+ Đều là những nông dân, những người con của vùng quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.

-> Thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính.

+ Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả

-> Cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh - làng tôi” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ.

=> Sự tương đồng về cảnh ngộ đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.

- Cùng chung lí tưởng chiến đấu:

+ Trước khi nhập ngũ, họ đều là những con người xa lạ: “Anh với tôi đôi người xa lạ”

+ “Tự phương trời” họ về đây đứng trong cùng đội ngũ, có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.

+ Họ cùng đi lính, chung lí tưởng chiến đấu vì Tổ quốc, “súng bên súng đầu sát bên đầu” sát cánh bên nhau trên chiến trường.

Hình ảnh “súng” - “đầu” sóng đôi tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. -> Điệp từ “súng” và “đầu” như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.

- Sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao và niềm vui với đồng đội

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

+ "Đêm rét chung chăn" : Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm

+ “Tri kỉ”: người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta

-> Vất vả, gian nan đã gắn kết họ lại với nhau và trở thành những người bạn tâm giao gắn bó.

=> Những người chiến sĩ chia sẻ với nhau những gian khó đời thường “đêm rét chung chăn”, hiểu rõ về nhau để trở thành “tri kỉ”.

+ Từ “Đồng chí”: cách gọi vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, đầy tình cảm, mang hơi thở thời đại mới của cách mạng, kháng chiến. 

-> Hai tiếng ấy vang lên làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của một tình cảm cách mạng cao đẹp: tình đồng chí.

=> Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu.

* Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí

- Cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau:

    + Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị, thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với họ từ lúc chào đời: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa”

    + Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện quyết tâm chiến đấu.

=> Tình cảm đồng chí thân thiết, họ chia sẻ với nhau những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ.

   + Dù tư thế ra đi dứt khoát, “mặc kệ” nhưng họ vẫn nhớ quê hương da diết.

   + Hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hoá “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà.

=> Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.

- Sự đồng cam cộng khổ, sẻ chia gian lao thiếu thốn của đời lính trên chiến trường.

   + Thủ pháp sóng đôi: “anh” - “tôi” tạo sự song hành, gắn bó giữa những người đồng đội.

   + “biết từng cơn ớn lạnh”, “run người”, “trán ướt mồ hôi” -> họ thương nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét rừng.

   + Khó khăn thiếu thốn đời thường : thiếu thuốc men, áo rách vai, quần vá, không giày, chịu đói rét.

   + "miệng cười buốt giá"

-> Sự thiếu thốn về vật chất không làm tình cảm của họ phai nhạt đi, ngược lại làm cho họ quyết tâm hơn vì lí tưởng:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

+ Họ nắm tay nhau - cái nắm tay để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng, để quyết tâm -> Cử chỉ cảm động chan chứa tình cảm chân thành, biểu hiện trực tiếp nhất của tình đồng chí.

* Bức tranh đẹp về tình đồng chí

- Nhiệm vụ gian khổ của người lính:

    + "đêm, rừng hoang, sương muối" -> hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt

    + Nhiệm vụ của những người lính chiến: đứng gác, phục kích sẵn sàng “chờ giặc tới”

- Hình ảnh đặc biệt: “Đầu súng trăng treo”

   + Gợi tả: hai người lính đứng gác dưới ánh trăng, trăng lặn xuống thấp dần khi trời gần sáng và như treo trên đầu súng.

   + Đặt hai biểu tượng đối lập trong cùng một câu thơ: “súng” tượng trưng cho chiến tranh, hiện thực; “trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp hòa bình, lãng mạn.

=> Một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu hiểu hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp.

Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

+ Nội dung: Ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và phẩm chất của những người lính cách mạng. Qua đó hiện lên hình tượng chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

+ Nghệ thuật: Thể thơ tự do với những câu dài ngắn đan xen linh hoạt, hình ảnh thơ cụ thể, xác thực mà giàu sức khái quát, ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, giàu sức biểu cảm, sử dụng nhiều từ ngữ đắt giá, hình ảnh thơ song hành.

- Cảm nhận của em về tác phẩm. Liên hệ tình đồng chí, tương thân tương ái ngày nay.


Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Bài mẫu 1

Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu ngắn gọn nhất (ảnh 2)

      "Đồng chí” ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kì kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, nhà thơ - người chiến sĩ cầm súng đã xúc động viết bài thơ “Đồng chí”. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

   Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ cua thời kì kháng chiến chín năm. Họ là những người xuất thân là nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành đồng đội thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:

"Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau."

       Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ. Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người rất “ xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó "nước mặn đồng chua", “ đất cằ lên sỏi đá”. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ". Đôi là chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau. "Đôi người xa lạ" nghĩa là hai người cùng đi với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những  phương trời xa cách, những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là "đồng chí”:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!"

      Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên đầu". Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lí tưởng cách mạng chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm "đôi người xa lạ" ấy đã nảy nở một tình cảm mới khi họ cùng chiến đấu vì một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí” - một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí” một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành "đồng chí”.

     Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng nương gửi bạn thân cày”, "gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính... Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng - Các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả, họ lại tìm dược niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh", những lúc “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi". Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu "áo anh" có “rách vai”, quần tôi có “vài mảnh vá", dẫu trời có "buổi giá" thì miệng vẫn cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng “thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí là "bàn tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng lièng cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực chi tiết mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh "anh với tôi" gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động "thương nhau" nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn tay". Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.

     Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

     Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính đi phục kích giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng về phía trước, có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí, đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

       Qua ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội, ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực cuộc sống của những người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự thành công của bài thơ "Đồng chí” đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.

       Đọc bài thơ "Đồng chí", mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dào dạt. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế  nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ “Đồng chí” ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.


Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Bài mẫu 2

     Đề tài về cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung và về những người lính trong cuộc chiến ác liệt ấy vẫn luôn là đề tài muôn thuở của thi ca với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Mỗi nhà thơ, nhà văn đều góp vào mảng đề tài ấy những tác phẩm đặc sắc, với một phong cách rất riêng và Chính Hữu cũng như vậy. Có thể nói, với bài thơ Đồng chí – ra đời năm 1948, nhà thơ Chính Hữu đã giúp chúng ta hiểu thêm về những người lính, về tình đồng chí đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc.

 

     Bảy câu thơ mở đầu bài thơ, tác giả Chính Hữu đã đưa đến cho người đọc những cơ sở, nền tảng góp phần tạo dựng nên tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, thắm thiết. Và trước hết, họ là những người có chung hoàn cảnh xuất thân:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau

     Dường như, bốn câu thơ với việc sử dụng thành ngữ “nước mặn đồng chua” và cách sử dụng từ “đất cày lên sỏi đá” tác giả đã khái quát một cách chân thực hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Họ đều là những xuất thân từ những làng quê nghèo khổ, cơ cực, lam lũ và vất vả, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc lên đường và “quen nhau”. “quen nhau”. Có thể nói, tác giả Chính Hữu đã thực sự tinh tế khi sử dụng từ “đôi” thay vì từ “hai”, bởi lẽ, dường như, từ “đôi” này đã xóa dần đi khoảng cách giữa những người lính, họ trở nên gần gũi, thân thuộc với nhau hơn thật nhiều.

     Thêm vào đó, những người lính còn là những người cùng chung lí tưởng, hoài bão và mục đích.

Súng bên súng đầu sát bên đầu

     Súng chính là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho khát vọng chiến đấu, chống quân xâm lược để bảo vệ non sông, đất nước. Thêm vào đó, điệp từ “súng” được lặp lại hai lần như thêm một lần nữa nhấn mạnh rằng, chính tình đồng chí của các anh được hình thành dựa trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ cao cả. Các anh từ những miền quê khác nhau những cùng mang trên đôi vai của mình nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, một trong số những cơ sở tạo dựng nên tình đồng chí đồng đội đó chính là họ cùng đồng cam, cộng khổ, chịu bao thiếu thốn, vất vả, gian nan để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

     Nếu như trong bảy câu thơ đầu, tác giả nêu lên cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội thì ở mười câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã đi sâu làm bật nổi những biểu hiện của tình cảm đáng trân quý ấy. Trước hết, tình đồng chí, đồng đội được biểu hiện ở sự thấu hiểu, sẻ chia mọi nỗi niềm tâm sự, có cả niềm vui và có cả nỗi buồn.

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

     Những người lính đã gác lại tình cảm của riêng mình, bỏ lại sau lưng khoảnh trời quê hương và gia đình để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc bởi vậy có lẽ hơn ai hết các anh thấu hiểu những nỗi niềm ấy của nhau và dệt nên ba câu thơ với thật nhiều xúc cảm. Hình ảnh “gian nhà không” vừa gợi nên cái dáng vẻ tiêu điều, xơ xác của làng quê nghèo vừa gợi nên niềm trống trải, cô đơn khắc khoải của người ở lại. Hai chữ “mặc kệ” như thể hiện một cách rõ ràng sự dứt khoát ra đi vì mục tiêu cao cả của những người lính. Đặc biệt, hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh ẩn dụ cho những người ở lại, cho quê hương của các anh. Quê hương đất mẹ nhớ các anh hay chính trong lòng những người lính bóng hình quê hương vẫn luôn luôn sống mãi trong các anh. Và có lẽ, bóng hình, nỗi nhớ quê hương chính là nguồn động lực to lớn, cổ cũ, khích lệ các anh trên con đường chính chiến đầy gian nan, thử thách và hiểm nguy.

     Hơn nữa, một biểu hiện khác của tình đồng chí đồng đội chính là sự gắn bó, cùng nhau chia sẻ mọi vất vả, khó khăn, thiếu thốn trong cuộc chiến đấu trường kì của dân tộc.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vững trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày

     Có lẽ chỉ với bốn câu thơ thôi nhưng cũng đủ để khái quát lên cho chúng ta bao nỗi thiếu thốn, vất vả, nhọc nhằn mà những người lính đã đồng cam cộng khổ cùng nhau vượt qua tất cả. Những nỗi nhọc nhằn ấy chính là những cơn sốt rét hoành hành họ nơii chốn rừng thiêng nước độc, là “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”. Khó khăn, vất vả là thế nhưng những người lính vẫn bên nhau, yêu thương nhau và cùng nhau vượt qua tất cả. Những điều ấy được thể hiện rõ nét qua câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Câu thơ đã vẽ nên một tình cảm gắn bó keo sơn, đậm chất lính. Những người lính ấy “tay nắm lấy bàn tay” để cùng nhau san sẻ, để trao cho nhau hơi ấm của tình yêu thương, của động lực để cùng nhau cố gắng.

     Đặc biệt, đọc bài thơ Đồng chí, chắc hẳn sẽ không ai có thể nào quên được ba câu thơ khép lại bài thơ – một biểu tượng đẹp, sáng ngời của tình đồng chí đồng đội.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

     Tác giả đã vẽ nên một hiện thực khốc liệt nơi chiến trường trong những năm kháng chiến chống Pháp – đêm đã về khuya, sương muối đang từng lớp từng lớp bủa vây mọi thứ nơi chiến trường. Và để rồi trên cái nền thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” – câu thơ gợi nên dáng vẻ chủ động, dũng cảm của những người lính. Đặc biệt, vẻ đẹp của những người lính được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “đầu súng trăng treo”. Đây là một hình ảnh mang ý nghĩa tả thực cho hình ảnh những người lính đứng canh gác nhưng hơn hết, nó là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, lạc quan và tràn đầy tinh thần chiến đấu của những người lính. Nó xứng đáng là bức tượng đài cho những người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

     Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ tự do, các biện pháp tu từ và đặc biệt là các hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu đã khắc họa thành công hình tượng người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc và gợi nên trong chúng ta nhiều suy nghĩ về tình đồng chí, đồng đội.


Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Bài mẫu 3

     Thơ ca kháng chiến của ta tập trung khắc họa hình ánh anh hùng nhân dân, đặc biệt là hình ảnh anh bộ đội và mối tình keo sơn gắn bó giữa những người lính với nhau trong những năm kháng chiến chống Pháp. Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu chính là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất.

Quê hương anh nước mặn đồng chua 

Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá.

Anh với tôi, đôi người xa lạ,

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, 

Súng bên súng, đầu sát bên đầu, 

Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay.

Đêm nay rừng hoang sương muối 

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

     Nhà thơ Chính Hữu sáng tác bài thơ này vào nam 1948 khi cuộc kháng chiêu đang hết sức gay go quyết liệt. Bằng bút pháp hiện thực, nhà thơ dã chắt lọc từ cuộc sống gian khó của những người lính tham gia chiến dịch Việt Bắc lúc ấy. Những đêm phục kích rải lá nằm rừng, những cơn sốt rét dữ dội. Tình đồng đội lớn lao thấm thía với những chi tiết, những hình ảnh tươi rói của đời sống ấy, nhà thơ đã viết bài Đồng chí. Với lời thơ mộc mạc, tự nhiên nhưng gày dược cho người đọc những suy tư sâu sắc, những xúc động sâu lắng…

Mở đầu bài thơ là những hình ảnh đầy tính khái quát”

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

     Hai câu thơ cho thấy những người lính tham gia cuộc kháng chiến đều xuất thân từ nông thôn, họ không hề quen biết nhau trước. Đúng như Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” đã viết: 

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ…

     Họ đến từ những miền quê hương khác nhau: người từ miền biển (nước mặn đồng chua), người từ vùng đồi núi (đất cày lên sỏi đá). Nói chung, những chiến sĩ bộ đội này đều lớn lên từ cảnh nghèo khổ, lam lũ, vất vả. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho họ từ xa lạ bỗng trở nên gần gũi với nhau.

Anh với tôi, đôi người xa lạ

     Từ phương trời chang hen quen nhau.Tuy đến từ các quê nghèo khác nhau, chẳng hẹn quen nhau nhưng vì họ đã sống và chiến đấu gian khổ với nhau trong cùng một đội ngữ nên những người lính này đã cùng chung một lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc, một ý chí, tình cảm, sự gắn bó càng thêm sâu đậm và thắm thiết hơn khi họ đắp chung chăn để trở thành đôi tri kỉ với nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ.

     Đoạn đầu của bài thơ được khép lại với câu bảy chữ có một từ nhưng đã làm sáng thêm ý tình sâu sắc nhất của đoạn thơ, giải thích được vì sao những người lính ấy gắn bó khăng khít, thân thiết như máu thịt. Hai tiếng Đồng chí tạo nên một âm vang ấm áp trong bài thơ có sức cảm động tâm hồn người như một tiếng gọi thiết tha của đồng đội.

     Tiếp theo mạch thơ, khi cái chăn đắp lại thì tâm sự họ mới là người lính ấy soi lòng vào nhau, anh hiểu tôi, tôi hiểu anh đến tận nỗi lòng sâu kín của nhau. Nếu trong hai câu đầu của bài thơ đã cho biết những người lính này ra đi từ các miền đồng quẻ nghèo khổ nước mặn đồng chua đồi núi hoang vu đất cày lên sỏi đá thì các câu thơ sau đây giúp ta hiểu thêm hoàn cảnh riêng của họ:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.

     Những người lính, những người đồng chí ấy đã ra đi chiến đấu trong tinh thần tự giác, tự nguyện. Đù gắn bó sâu nặng, thiết tha với mành ruộng, căn nhà, nhưng họ đã sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi đánh giặc giữ nước Tình cảm quê hương đáp lại đối với những người lính này cũng thật là sâu nặng, tha thiết:

Giềng nước gốc đa nhớ người ra lính.

     Nhà thơ dùng những hình ảnh tiêu biểu và phổ biến của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính gốc nông dân. Cảnh vật ở dây được nhà thơ tạo cho một linh hồn đế hướng theo bước chân người lính.

Nhưng còn gì chân thực, gợi tả đầy xúc động bằng những câu kế tiếp:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá 

Chân không giày

     Những người lính gốc nông dân ấy có cùng chung cảnh ngộ ở quê hương, gia đình, tại đơn vị đã trở thành đổng chí với nhau lại thêm một lần nữa chia bùi sẻ ngọt với những thiếu thốn gian khổ trong cuộc chiến đấu ấy.

Đoạn thơ thứ hai kết thúc bằng câu thơ:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

     Câu thơ là một hình ảnh gợi tả của sự cảm thông ấm áp giải thích được nguồn sức mạnh nào khiến những người chiến sĩ này vượt qua được mọi sự gian khổ, thiếu thốn lúc bấy giờ.

     Sau cùng là đoạn cuối với ba dòng thơ một khung cảnh thực.

Đêm nay nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.

Đầu súng trăng treo

     Đó là hình ảnh một đêm phục kích chờ giặc tới, tại một cánh rừng hoang vắng dãy sương muối có một vầng trăng treo trên đầu súng của những người chiến sĩ đang đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới. Câu thơ cuối bài: Đầu súng trăng treo, bốn tiếng là một sự bất ngờ đầy thú vị. Thú vị biết bao và bất ngờ biết mấy khi nhận thấy súng và trăng, cứng rằng và dịu hiện, chiến sĩ và thi sĩ sao lại hòa quyện với nhau đẹp đến như thế. Một câu thơ bốn tiếng nhưng đủ làm sáng lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của anh Bộ đội Cụ Hồ.

     Toàn bộ bài “Đồng chí” là các hình ảnh, các chi tiết chân thức, chắt lọc từ một hoàn cảnh đời sống chiến đấu gian khổ, khốc liệt được tác giả phát hiện ra bài thơ bay bổng làm lay động lòng người, tạo nên được những suy tư sâu sắc, nhưng xúc động lắng sâu về tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.

     Bài thơ vừa mộc mạc, giản dị, vừa cô đọng hàm súc, có sức khái quát cao tiêu biểu cho phong cách thơ Chính Hữu.


Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Bài mẫu 4

Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu ngắn gọn nhất (ảnh 3)

 “Tuổi thanh xuân đến với núi rừng

Dù bom rơi mưa dông nắng lửa”

     Những câu hát ấy vang lên làm người ta chợt nhớ về đề tài người lính. Và tác giả Chính Hữu là một trong những nhà thơ viết xuất sắc về mảng đề tài thiêng liêng bất hữu ấy. Chính Hữu được mệnh danh là nhà thơ quân đội.Những vần thơ của ông là những cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc rất hàm súc. Bài thơ Đồng Chí là bài thơ đặc sắc trong chủ đề người lính của Chính Hữu. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Đầu súng trăng treo”. Bài thơ là tiếng lòng là tình đồng chí thiêng liêng và cao cả.

     Viết về đề tài Cách Mạng nhiều tác giả vẫn canh cánh trong lòng, không biết viết như thế nào cho hay cho dạt dào cảm xúc và truyền đúng thông điệp ý nghĩa rất thiêng liêng! Mặc dù như thế, nhưng những tác giả lớn như Quang Dũng, Tố Hữu, và không thể không nhắc đến Chính Hữu,.. chính là những tác giả rất thành công về đề tài này. Chính Hữu chính là nhà thơ quân đội, trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “Đồng chí” chính là tiếng lòng về tình cảm gắn bó keo sơn như anh em của những người lính trẻ nơi chiến trường đầy hiểm nguy và gian khổ.

     Mở đầu đoạn thơ là một tiếng lòng, là cơ sở để hình thành tình đồng chí thiêng liêng và cao cả. Chính những mầm non cơ sở ấy mà giúp tình cảm của những người lính trẻ thêm khắng khít, keo sơn

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

 Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

     Từ những câu thơ đầu đoạn Chính Hữu đã cho ta thấy không chỉ sự gắn bó với nhau mà còn biết được hoàn cảnh xuất thân của những người lính trẻ. “ Quê anh nước mặn đồng chua” tác giả đã dùng những từ ngữ gợi tả gợi lên cảnh vùng đất nhiễm mặn ở ven biển gây khó khăn cho vùng biển nghèo. Hay “ làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” cũng thế ấy! Quê hương các anh đều là những vùng đất nghèo của miền quê Việt Nam! Chính sự giới thiệu đơn giản mộc mạc ấy làm những người lính trẻ như có những nét chung về quê hương mà không ngại chia sẻ cùng nhau.

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

     Các anh lính trẻ ấy! Những con người xuất thân từ những người nông dân của mọi miền quê nghèo trên lãnh thổ Việt nam thế ấy! Thấy vậy mà “tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Liệu có ai đặt câu hỏi rằng tại sau như thế không? Bởi vì đơn giản họ có chung một xuất thân bình dị nhưng lại có chung một mục đích cao cả là chiến đấu bảo vệ hòa bình bảo vệ non sông đất nước!

     Chẳng biết họ đên từ đâu, làm những công việc gì. Nhưng ngày hôm ấy, họ đến với nhau nơi núi rừng hiểm trở, với lí tưởng mà muôn đời sau ngưỡng mộ là chiến đấu chống ngoại xâm giành hòa bình độc lập cho dân tộc.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

     Câu thơ ấy của Chính Hữu nghe sau tình cảm mà thiêng liêng quá đỗi. Điệp từ “súng” như muốn nhấn mạnh một nhiệm vụ cao cả một vật chiến đấu mà những người lính trẻ đều luôn mang giữ bên mình. Trong lúc “ đầu sát bên đầu” ấy chứ mà họ cũng không quên làm nhiệm vụ. Quả thật là một hình ảnh đẹp xúc động lòng người. Và đó chính là sự thành công trong những hồn thơ của Chính Hữu! Nới núi rừng xa xôi hiểm trở ấy có biết bao là gian nan thử thách. Có những “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”!  Đây là hình ảnh gợi tả về tình tri kỉ của những người lính trẻ. Rừng núi không những có thú dữ mà còn có những căn bệnh nguy hiểm như sốt rét rừng, những cơn rét phát run cả người. Khó khăn bệnh tật như ấy nhưng vẫn không làm nản chí những người lính với lí tưởng cao cả.

     Câu thơ cuối là câu thơ đặc biệt chỉ có hai từ nhưng cô động và hàm súc đúc kết rất nhiều ý nghĩa: “ Đồng chí”. Chỉ hai từ vỏn vẹn vang lên nhưng nghe sau mà thiêng liêng và cao cả! Nó như đúc kết tình cảm gắn bó keo sơn những người có chung lí tưởng, chí hướng. Họ xem nhau là đồng dội là anh em ruột thịt cùng nhau san sẻ mọi khó khăn mà tiến về phía trước. Trong máu họ có cùng dòng màu Rồng Tiên nên tình cảm của họ càng khắng khít càng quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm.

     Chính xuất thân giống nhau, lí tưởng giống nhau, mà giúp những con người “xa lạ” mà trở thành “đôi tri kỉ”. Từ sự gắn bó keo sơn làm nên sức mạnh của tình đồng chí cùng nhau vượt qua mọi khó khăn thử thách và bệnh tật nên núi rừng hiểm trở

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

     Cái chất nông dân thuần phát ấy đã ăn vào máu thịt của những người lính trẻ với lí tưởng lớn. Đã là nông dân thì họ xem nhà cửa, ruộng vườn,… vốn là những thứ quý nhất. Nhưng hôm nay, họ rũ bỏ tất cả đi theo cái gọi là cao cả, cái khát khao tươi đẹp của lí tưởng, cái mà người người vẫn cho rằng cao thượng. Hôm nay họ bỏ lại vốn tài sản vốn quý nhất của người nông dân để rồi phải “ ruộng nương anh gửi bạn thân cày”. Nhịp thơ 2/2/3 nghe sao mà chầm chậm làm xao xuyến lòng người. Không dễ gì từ bỏ thứ quý nhất của người nông dân nhưng rồi ác anh cũng đành phải luyến tiếc mà gửi lại quê nhà. Các anh đã quyết ra dù “ gian nhà không mặc kệ gió lung lay”. Cụm từ “mặc kệ” đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng các anh đã có lí tưởng và rất quyết tâm. Nhà là nơi quan trọng nhất, không chỉ là nơi che nắng che mưa mà còn là nơi yêu thương sau những giờ làm việc mệt nhọc. Nhưng các anh đã bỏ lại căn nhà gió lung lay ấy mà ra đi. Đau lòng không? Rất đau lòng! Đáng lẽ ra khi nghe những dòng thơ mà giống như những dòng tâm sự này chúng ta càng yêu hơn những người lính trẻ.

     Càng đau lòng hơn là chính hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Chính Hữu đã sử dụng hình ảnh hoán dụ để làm tăng nỗi nhớ nơi mẹ già và cả những người vợ trẻ. Không chỉ có những người lính biết hi sinh tài năng sức trẻ của mình cho đất nước mà cả những người thân quê nhà cũng đầy nỗi hi sinh. Họ đều là những con người cao thượng rất đáng để người đời khâm phục!

     Đã là chiến trường thì chưa bao giờ được gọi là bình yên, nơi ấy biết bao mối nguy hiểm đang rình rập. Đặc biệt là chiến trường nơi núi rừng xa xôi cách trở có hàng tá mối nguy hại-đó là những cơn sốt rét rừng đã lấy đi biết bao sức lực và cả sinh mệnh của những người lính.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

 Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

     Những câu thơ ấy cứ chầm chậm vang lên, nhịp thơ mỗi lúc mỗi chậm như chính sự sâu lắng trầm tư mang đầy tâm sự của Chính Hữu hay chăng? Những năm khangs chiến chống Pháp ấy nước ta còn nghèo  thiếu thốn mỗi thứ từ quân trang, quân phục, dụng cụ y tế,… khiến cho những người lính phải chịu những “cơn ớn lạnh”,”sốt run người”. Tinh thần của những người lính trẻ kiên cường lắm, bất khuất lắm. Bởi như từ xa xưa Nguyễn trãi đã từng viết rằng:

“Khó khăn thì mặc có màng bao

Càng khó bao nhiêu chí mới hào”

( Thuật hứng bài 21 – Nguyễn Trãi)

     Càng khó khăn thì tinh thần chiến đấu của những người lính trẻ càng hăng hái. Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, mà những người lính trẻ vẫn kiên cường theo Cách Mạng, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười “buốt giá”, lạnh như băng. Ngôn từ giản dị, từ ngữ gợi tả linh hoạt sống động tạo nên cảm giác sâu sắc cho bài thơ. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ càng gắn bó như anh em ruột thịt. Bởi vì, ngay trong boàn cảnh khó khăn họ cần phải tự tạo nên sưc mạnh mà vượt qua thử thách.

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

     Với nghệ thuật điệp từ “tay” Chính Hữu như muốn nhấn mạnh tình cảm gắn bó của họ. “ Thương nhau” như anh em ruột thịt, nắm tay nhau tạo nên sức mạnh vĩ đại nơi chiến trường rừng núi mà làm nên những chiến công hiển hách. Sự gắn bó yêu thương đoàn kết của những người lính vốn từ những người xa lạ, những người nông dân nghèo thành đôi tri kỉ.

     Chính những hoàn cảnh khó khăn nơi rừng núi, và những tình cảm gắn bó khắng khít của những người lính trẻ đã tạo nên một biểu tượng đẹp về tình đồng chí đáng ngưỡng mộ.

“ Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

     Màn đêm buông xuống, sương muối rừng phủ dày đặc nhưng những người lính ấy vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh đẹp ấy được tác giả Chính Hữu sử dụng nhịp thơ 2/2/2 chầm chậm mà sâu lắng. Họ đứng cạnh nhau trông thật lãng mạn nhưng có ai biết rằng lòng họ vẫn bộn bề lo âu, trắc trở. Câu thơ cuối bài là câu thơ bốn chũ nhưng mang đầu vẻ lãng mạn nơi chiến trường: “ Đầu súng trăng treo”. Trăng nơi ấy, nơi núi rừng hoang du ấy đã trở thành người bạn tâm giao của các chiến sĩ. Họ tưởng tượng mảnh trăng treo đầu súng, một cách tưởng tượng rất thú vị. Chính yếu tố lãng mạn ấy đã tạo niềm vui nho nhỏ, góp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ ngày đêm làm nhiệm vụ cao cả cho đất nước cho dân tộc. Gìn giữ hòa bình chống ngoại xâm là nhiệm vụ muôn đời!

     Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã rất thành công phần vì chủ đề sáng tác và phần to lớn là nhờ vào ngôn từ giản dị, hình ảnh gợi tả chân thực, yếu tố thực và lãng mạn đan xen tạo cảm giác thích thú cho người đọc. Cũng thông qua đó Chính Hữu muốn gửi gắm hình ảnh đẹp đẽ của những người lính nơi chiến trường rừng núi dù có khó khăn, gian khổ thì họ vẫn quyết tâm vì tương lai dân tộc vì một ngày mai tươi sáng. Tinh thần ấy rất đáng trân trọng! Người lính ra đi dù khó khăn vẫn quyết tâm cao như hai câu hát da diết sau:

“Máu thấm đường ta đi lẫn mồ hôi rơi tình quê tha thiết

Ta đi theo ánh lửa trái tim mình”


Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Bài mẫu 5

Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ là điểm hội tụ của những người chiến sĩ có cùng nhiệt huyết chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ở đó có hàng triệu trái tim yêu nước đã giã từ bờ tre, giếng nước của quê nhà ra đi đánh giặc. Cuộc sống vất vả, gian nan trong chiến đấu đã gắn kết họ lại với nhau trong tình đồng chí. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý ấy của những người chiến sĩ một cách sâu sắc.

Lời thơ thật mộc mạc, tự nhiên như những lời tâm sự. Những thành ngữ đi vào trong thơ làm cho ta cảm giác như chính cuộc sống hàng ngày của người lính được hiện lên trước mắt ta vậy. Họ đến từ những miền quê khác nhau, người thì từ đồng bằng ven biển lên, kẻ thì từ vùng trung du xuống, nhưng họ đã dễ dàng gần gũi, thông cảm với nhau bởi cùng ra đi từ những vùng quê nghèo khó, vất vả:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

...

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Câu thơ Súng bên súng đầu sát bên đầu vừa có ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Những người lính luôn gắn bó bên nhau lúc chiến đấu cũng như lúc sinh hoạt cùng đồng đội, “súng bên súng” là cùng chung hành động, “đầu sát bên đầu” là cùng chung lí tưởng tạo nên một nguồn sức mạnh.Người lính đã cùng nhau sẻ chia gian lao, vất vả trong buổi đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều gian khổ thiếu thốn:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Họ cùng sẻ chia những giá trị vật chất tuy chẳng là bao nhưng thấm đẫm tình đồng đội. Cùng đắp chung một chiếc chăn bông trong những đêm rừng sương lạnh, đây là điều kiện thuận lợi để người lính dễ dàng trao đổi tâm tình cho nhau. Vì thế mà họ trở thành “tri kỉ” của nhau.Hai tiếng “Đồng chí” được đột ngột tách thành một câu thơ riêng biệt có đi kèm một dấu chấm cảm, chia bài thơ thành hai nửa. Nửa trên là quy nạp, nửa dưới là diễn dịch. Hai nửa ấy như muốn làm rõ thêm tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ, làm lay động hàng triệu trái tim người đọc.Những vần thơ như mang nặng bâng khuâng, thương nhớ của những người chiến sĩ:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay.”

Đây là sự hi sinh cao cả của người lính. Họ lên đường ra mặt trận mặc dù ruộng vườn nhà cửa phải bỏ hoang. Người lính đã vì cái chung mà hi sinh cái riêng, đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của bản thân mình. Thật cảm động hình ảnh Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Hai chữ “mặc kệ” được cất lên, đó là một sự nỗ lực về tâm lí, một sự cố gắng để vượt lên trên những tình cảm nhớ thương dằn lòng bởi họ thấm nhuần cái chân lí “nước mất nhà tan”.Chính tình yêu quê hương của người chiến sĩ đã làm cho những vật vô tri vô giác cũng như dâng lên một nỗi nhớ:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Đây cũng là cớ để gợi lên nỗi nhớ quê hương, nhớ cái giếng nước trong mát lành, nhớ gốc đa rợp bóng mát của quê mình. Họ luôn mang theo bên mình cả quê hương vào trong cuộc chiến đấu gian nan.Mặc dù buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt qua:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Họ đã động viên nhau, sưởi ấm cho nhau bằng hơi ấm của tình người, tình đồng đội để vượt qua những cơn sốt rét, vượt lên những khó khăn của thời tiết khắc nghiệt:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Trong cảnh “rừng hoang sương muối” người lính đứng bên nhau phục kích chờ giặc, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả mọi khó khăn.Trong khó khăn, những người lính vẫn ung dung, chủ động, vẫn sát cánh bên nhau “chờ giặc tới”. Người lính càng yêu đời hơn bởi nơi đây còn có một người bạn tri âm tri kỉ, người bạn đó là vầng trăng thơ mộng. Đối với những người lính ra đi từ chốn đồng quê, trăng đã trở nên gần gũi, giờ đây họ lại mang vầng trăng ấy vào trong chiến trường ác liệt. Nó như thức cùng người chiến sĩ trong những đêm khuya chờ giặc tới.Không những thế, hình ảnh vầng trăng thơ mộng còn tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Trong không khí căng thẳng vì đối đầu với địch, người lính vẫn luôn hướng về ánh sáng trong trẻo của vầng trăng và hướng về lí tưởng chiến đấu vì hoà bình của dân tộc.


Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu - Bài mẫu 6

Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm “ Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Đầu súng trăng treo”

Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nông dân. Từ mọi miền quê trên dải đất hình chữ S, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ quốc, tụ họp lại với nhau, trở thành những người lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”. Câu thơ biến hoá 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống còn 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kỳ: “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con người xa lại thành đôi tri kỷ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi, nhưng nếu không có một tình yêu đất nước xâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay"

Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: tình yêu quê hương đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ. Bởi vậy, họ nguyện bỏ lại tất cả: ruộng nương, xóm làng. Nhưng ở chiến khu, những người lính nông dân lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:

“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”

Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nông dân. Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường, không có gì phi thường cả:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

...

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững, vẫn nở “miệng cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc sống hay cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Những câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa trong lòng người đọc chúng ta. Tuy nhiên từ trong sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Những người lính nông dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính mà lại không nói về tình đồng chí, tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ. Tìm hiểu nhau, những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất vả khó nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng và mục đích chiến đấu. Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời những người lính với nhau để làm nên hai tiếng “đồng chí” xúc động và thiêng liêng.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy mà còn phát ra từ ánh sáng lung linh, chính là tình đồng đội. Vượt rừng đâu phải chuyện dễ dàng. Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh buốt xương, những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gây dựng vội vã. Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng miếng áo rách, quần vá. Với họ quan tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. Ôi ấm áp biết mấy là cái siết tay của đồng đội lúc gian khó. Cái siết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đường kháng chiến dân tộc. Nhưng dường như trước mắt những con người này, mọi thứ không còn hiểm nguy. Trong đêm trăng vắng lặng, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những người lính vẫn kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh mạnh nhất. Mục đích chiến đấu vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích hợp chung con đường, thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Đó là tình đồng chí giữa những người lính …Không chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính, bài thơ “Đồng Chí” còn mang ta đến chi tiết lãng mạn cao hơn ở cuối bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Người lính không cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hướng theo mũi súng. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tượng kỳ lạ:

“Đầu súng trăng treo”

Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài thơ chính là hình ảnh này. Từ tình đồng chí, trải qua những thử thách khác nhau, Chính Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ. Nếu hai câu thơ trên không kết hợp với hình ảnh “đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc. Ngược lại, nếu không có sự nâng đỡ của của hai câu thơ đó thì hình ảnh sẽ bị coi là thi vị hoá cuộc sống chiến đấu người lính. Sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “đầu súng trăng treo” trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự cảm nhận tinh tế của Chính Hữu. Nhờ sự liên tưởng thông minh tài tình, tâm hồn giàu cảm xúc, Chính Hữu đã gợi lên một không gian bát ngát giữa vũ trụ bao la, nó có cái gì đó rất bồng bềnh, huyền bí, khó tả. Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm mỹ sâu sắc với người đọc . đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca. “Đầu súng trăng treo” được xây dựng bằng bút pháp siêu thực, đầy chất thơ.

 Tại sao vậy? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian nghệ thuật hiện thực của “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” và đặc biệt là không gian “rừng hoang sương muối”; nó đã góp phần tô đẹp thêm hình tượng vầng trăng, cây súng. Hai hình ảnh này đối lập nhau rất rõ. Một bên là vầng trăng muôn thuở hấp dẫn và kì lạ, thanh bình với thi ca. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hòa bình, hạnh phúc của nhân loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống tươi đẹp hòa bình hạnh phúc. Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan hệ với súng. Một bên là súng, súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng súng cũng trở thành lý tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hòa bình dân tộc của người chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đối lập, nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mỹ nhất. Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ. Qua đó ông muốn khẳng định cái khát vọng về một cuộc sống yên lành đầy chất thơ: để cho vầng trăng kia sáng mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Có thể nói, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một phát hiện thú vị, mới lạ độc đáo của Chính Hữu. Chính hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thuở của dân tộc nói chung và người lính nói riêng.

Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẩm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, với tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng Chí” trên những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh, cho nay và mai sau mãi nhớ về.


Kiến thức bổ sung bài Đồng chí


- Ý nghĩa nhan đề Đồng chí

+ Đồng chí là cách gọi khái quát về tình đồng đội gắn bó keo sơn, thiêng liêng và nghĩa tình.

+ Đồng chí là những con người cùng chung lý tưởng, chí hướng, cùng làm một đơn vị, cơ quan.

+ Từ khái niệm trên cùng sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lý tưởng bảo vệ Tổ quốc, những người lính từ những phương trời xa lạ tập hợp và tình đồng chí đến với họ là một điều tất yếu.

- Bài thơ sau này đã được nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc cho ra bài hát "Tình đồng chí", khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.


- Hoàn cảnh sáng tác bài Đồng chí

Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948 - sau chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. Khi đó ông là chính trị viên đại đội, từng theo đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc và từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Sau chiến dịch, ông bị ốm nặng, phải nằm lại điều trị. Đơn vị đã cử một đồng chí ở lại để chăm sóc cho Chính Hữu và người đồng đội ấy rất tận tâm giúp ông vượt qua những khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng của người bạn, ông đã viết bài thơ “Đồng chí” như một lời cảm ơn chân thành nhất gửi tới người đồng đội, người bạn nông dân của mình.

---/---

Như vậy, Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay Phân tích bài Đồng Chí của Chính Hữu để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 26/08/2021