Tiếng Việt thuộc hệ Nam Á. Đó là một họ ngôn ngữ có từ rất xưa, trên một vùng rộng lớn nằm ở Đông Nam Á, vùng này, thời cổ vốn là một trung tâm văn hóa trên thế giới. Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn “Phân loại ngôn ngữ của tiếng Việt”. Mời các bạn cùng tham khảo.
- Tiếng Việt là tiếng nói của người Việt (còn gọi người Kinh) đồng thời cũng là ngôn ngữ quốc gia. Theo tài liệu gần đây, nguồn gốc tiếng Việt bắt nguồn từ một ngữ hệ lớn khu vực Đông Nam Á, tiền sử là Ngữ hệ Đông Nam Á từ sông Dương Tử (Trung Quốc) tới Mianma giáp cả tới châu Đại Dương. Nhiều năm qua qua, do sự tiếp xúc nên ngữ hệ này chia thành nhiều dòng, trong đó có dòng Môn - khơme phân bố ở vùng cao nguyên nam Đông Dương.
Tiếng Việt thuộc loại hình đơn lập. Các đặc điểm loại hình của tiếng Việt là:
a. Tính phân tiết và đặc điểm, vai tr của âm tiết (đặc trưng về ngữ âm tiếng Việt)
- Âm tiết tiếng Việt: Là đơn vị phát âm tự nhiên, dễ nhận biết; khi nói hoặc viết được tách bạch rõ ràng (rang giới của âm tiết/ tiếng trong lời nói).
* Cấu trúc của âm tiết:
Có cấu trúc chặt chẽ rõ ràng. Mỗi âm tiết tối đa gồm 2 thành phần: phụ âm đầu và phần vần (âm đệm, âm chính, âm cuối). Các phần và các bộ phận luôn sắp xếp theo một trật tự nhất định.
- Mỗi âm tiết luôn mang một âm điệu nhất định (có 6 thanh). Do âm tiết cấu tạo gồm 2 phần: ÂĐ + phần vần nên tạo ra phép láy, cách nói lái, tính đối xứng của câu văn và câu thơ, thành ngữ, tục ngữ:
+ Tượng lo - lọ tương tiền đâu - đầu tiên (phép nói lái)
+ Xanh, xanh xanh, xanh xao (phép láy)
+ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn (tính đối xứng)
* Về nghĩa:
Âm tiết thường là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Mỗi âm tiết tương ứng với 1 hình vị. Nhiều âm tiết vừa có nghĩa vừa được dùng độc lập như từ (từ đơn) hoặc là thành tố cấu tạo nên từ. VD: đẹp (đẹp đẽ) hoặc trong (bức tranh này rất đẹp)
- Có âm tiết có nghĩa nhưng lại được dùng làm thành tố cấu tạo nên từ khác: nhân (nhân dân, công nhân, vĩ nhân, nhân loại...)
- Có âm tiết không tự thân có nghĩa nhưng có tác dụng góp phần tạo nên nghĩa cho từ mà chúng tham gia cấu tạo. VD lạnh lùng khác nghĩa lạnh nhỏ nhen khác nghĩa với nhỏ...
* Về ngữ pháp:
Mỗi âm tiết tiếng Việt thường xuất hiện với tư cách như từ. Trường hợp có từ ghép hay từ láy khi tham gia hoạt động giao tiếp nói hoặc viết được tách ra d ng lâm thời như từ đơn:
- Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm. (TK- ND)
- Ăn ở có nhân có đức.
b. Từ không biến đổi hình thái (hình thức của từ trrong lời nói)
Hình thức của từ tiếng Việt trong lời nói: từ không biến đổi hình thái, nó ổn định về hình thức ngữ âm cho nó giữ các chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu (điều này khác với tiếng Anh, Nga...)
c. Các phương thức ngữ pháp chủ yếu
Trong ngôn ngữ hòa kết, phương thức ngữ pháp chủ yếu ở phụ tố. Trong loại hình ngôn ngữ đơn lập - phân tích tính: phương thức ngữ pháp chủ yếu là trật tự từ & hư từ. Tiếng Việt có 2 phương thức ngữ pháp chủ yếu là:
* Trật tự từ:
VD: "Nó cho tôi quyển sách" khác “Tôi cho nó quyển sách”.
- Thay đổi trật từ các từ dẫn đến nghĩa của câu thay đổi. Trong câu, từ và cụm từ được sắp xếp theo trật tự nhất định biểu đạt nghĩa. Thay đổi trật từ -> thay đổi nghĩa-> phương diện ngữ pháp cũng thay đổi theo.
- Chỉ trong điều kiện nhất định, thì trật tự từ có thể thay đổi mà không làm thay đổi nội dung cơ bản của câu. Trường hợp đảo đổi vị trí ngữ pháp nhằm nhấn mạnh ý nghĩa nào đó.
* Hư từ:
- Trong tiếng Việt, nhiều hư từ biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp nhất định.
- Hư từ cũng là phương thức ngữ pháp quan trọng.
+ Thể hiện ý nghĩa số nhiều cho DT (các, những, mỗi, mọi, chỉ, từng, ...)
+ Thể hiện ý nghĩa thời gian cho ĐT (đã , sẽ, đang, vừa, mới, sắp,...)
+ Thể hiện ý nghĩa chỉ mức độ cho TT (rất, hơi, lắm,...)
- Hư từ thể hiện ý nghĩa ngữ pháp quan hệ: và, với, hoặc. của, những, là, mà...
VD: "Chẳng những chích bông là bạn của trẻ em mà chích bông còn là bạn của bà con nông dân" (Tô Hoài).
- Ở tiếng Việt, khi trật tự từ chưa làm sáng tỏ quan hệ ý nghĩa thì hư từ có tác dụng hỗ trợ làm rõ nghĩa hơn; khi quan hệ ý nghĩa đã rõ thì không cần đến hư từ.
Có dùng hư từ:
+ Tay của tôi
+ Anh ấy là người Hà Nội
Không cần hư từ:
+ Tay tôi
+ Anh ấy người Hà Nội
- Ngoài 2 phương thức trên, tiếng Việt còn d ng 2 thức thức nữa là: hương thức ngữ điệu và phương thức láy.
+ Phương thức ngữ điệu: góp phần thể hiện mục đích nói năng, ý nghĩa tình thái của câu và quan hệ ngữ pháp khác nhau trong từng trường hợp cụ thể.
+ Phương thức láy : dùng để diễn đạt ý nghĩa về mặt lượng của sự vật hay hoạt động.