Trả lời
Tên thành tựu | Lĩnh vực | Niên đại | Quốc gia | Ý nghĩa/Giá trị |
Thờ thần lúa ở Ba-li | Tín ngưỡng | Đầu thế kỉ I | In-đô-nê-xi-a | Là vị nữ thần của nông nghiệp và sự màu mỡ. |
Thạt Luổng | Kiến trúc | 1566 | Lào | Là ngôi chùa cổ nhất ở Đông Nam Á |
Thánh địa Mỹ Sơn | Kiến trúc điêu khắc | Thế kỉ II-XII | Việt Nam | Quần thể kiến trúc đặc sắc |
Quần thể di tích Ăng-co | Kiến trúc điêu khắc | Thế kỉ II-XII | Cam-pu-chia | Di sản vĩ đại nhất của người Khmer gửi cho hậu thế |
Phù điêu trên Đài thờ Mỹ Sơn | Điêu khắc | Thế kỉ VII - VIII | Việt Nam | Được công nhận Bảo vật quốc gia năm 2012. Là đài thờ Chăm-pa duy nhất miêu tả nhiều nhân vật, cảnh sinh hoạt của các tu sĩ Ấn Độ giáo. |
Đền Bô-rô-bu-đua | Kiến trúc | Thế kỉ IX | In-đô-nê-xi-a | Là nơi có tập hợp phù điêu chạm khắc lớn nhất và đầy đủ nhất trên thế giới. |
Đền thờ Prambanan | Kiến trúc | Thế kỉ X | In-đô-nê-xi-a | Đặc trưng tiêu biểu của đền thờ thần Siva vào thế kỷ thứ 10; một kiệt tác về kiến trúc, nghệ thuật và văn hóa của thời kỳ Cổ điển ở Indonesia và khu vực Đông Nam Á |
Kinh đô Thăng Long | Kiến trúc | Thế kỉ X | Việt Nam | Thăng Long là nơi có vị trí thích hợp nhất “xem khắp đất Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương. Đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. |
Kinh đô Luông Pha-băng | Kiến trúc | Thế kỉ XIV | Lào | Luông Pha-băng là cố đô tiêu biểu cho truyền thống lịch sử, văn hóa và cũng là trung tâm của đạo Phật |
Công giáo | Tôn giáo | Đầu thế kỉ XVI | Phi-lip-pin | Là một bộ phận của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ. Giáo hội này được quản lý bởi Giáo hoàng. |
Thị trấn cổ Virgan | Kiến trúc điêu khắc | Thế kỉ XVI | Philipin | Phản ánh của nhiều nền văn hóa khác nhau từ Philipine, Trung Quốc cho đến các quốc gia Châu Âu. |
Quần thể di tích cố đô Huế | Kiến trúc điêu khắc | Thế kỉ XIX | Việt Nam | Góp phần làm phong phú thành tựu của văn minh nhân loại |
Ý niệm về Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt đã có từ lâu. Song cùng với thời gian, khải niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn. Từ xa xưa để chỉ khu vực này, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho những mục đích riêng biệt: Người Trung Quốc xưa kia thường dùng từ “Nam Dương" để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía Nam; Người Nhật gọi vùng này là “NanYo"; Người Ả Rập xưa gọi vùng này là "Qumr", rồi lại gọi là “Waq - Waq" và sau này chỉ gọi là “Zabag". Còn người Ấn Độ từ xưa vẫn gọi vùng này là “Suvarnabhumi" (đất vàng) hay "Suvamadvipa" (đão vàng).
Đến khoảng nửa đầu thế kỷ 15, hầu hết các quốc gia tiền thân ở Đông Nam Á đã ra đời, và bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ mà điển hình là nhà nước Đại Việt dưới triều nhà Lê. Đây là nhà nước hoàn thiện và hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nhưng đến nửa đầu thể kỷ 18, các nhà nước trên bắt đầu suy yếu và rơi vào sự xâm lược hoặc lệ thuộc vào phương Tây, bắt đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa châu Âu. Sự quản lý thuộc địa có một ảnh hưởng sâu sắc với Đông Nam Á.
Đến đầu thế kỷ 20, các phong trào dân tộc tại các quốc gia trên khu vực đã bùng dậy mạnh mẽ để giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc; đồng thời cũng từ đó ra sức xây dựng để đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Và cũng kể từ đó khu vực này đã bước vào giai đoạn phát triển nhanh chóng cả về mặt quân sự cũng như kinh tế.
- Văn hóa Đông Nam Á đa dạng và riêng biệt: Từ khi sơ khai, văn hóa Đông nam Á đã được xem là một trong những cái nôi hình thành nên loài người. Nền văn hóa Đông Nam Á cũng tiếp thu từ những yếu tố bên ngoài, và nhờ những giao thoa đặc biệt này mà hình thành nên những nét riêng cho cả thời hiện tại.
- Phong tục tập quán: Khu vực Đông Nam Á cũng tồn tại hàng trăm dân tộc khác nhau, tạo nên những tập quán đa dạng, không bị trùng lặp nhưng vẫn có những nét gần gũi và tương đồng.
- Lễ hội: Không quốc gia nào trong khu vực Đông Nam Á mà lại không có những đặc điểm lễ hội riêng biệt. Có thể thấy những nét đặc sắc của văn hóa cũng được thể hiện rõ nét nhất thông qua lễ hội.
- Tín ngưỡng bản địa: Với quá trình lịch sử xâm lược của các đế quốc, nhiều nước tại Đông Nam Á dần bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, mà cụ thể là đạo Thiên Chúa. Ngoài ra phần lớn người dân mỗi nước, vẫn giữ nguyên tinh thần tín ngưỡng của dân tộc, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên hay tín ngưỡng phồn thực khác. Những tín ngưỡng riêng biệt này vẫn luôn được giữ gìn, giống như một nét văn hóa không thể mất đi.
Văn hóa Đông Nam Á luôn có sự đa dạng, với những màu sắc mới lạ khác nhau của các dân tộc trong cùng khu vực, và của các nước liền kề. Theo thời gian, các nét văn hóa dần thay đổi, du nhập những cái mới nhưng không làm mất đi nét riêng và bị bão hòa.
- Đông Nam Á là một tiểu vùng của châu Á, có tất cả 11 quốc gia với sự đa dạng về tôn giáo, văn hóa và lịch sử. Các nước Đông Nam Á nằm ở phía Đông của Tiểu Lục địa Ấn Độ, phía Nam Trung Quốc và phía bắc của Úc, giữa Ấn Độ Dương (phía tây) và Thái Bình Dương (ở phía đông). Đây cũng là một trong những khu vực năng động nhất trên thế giới về mặt kinh tế và tầm quan trọng quốc tế ngày càng gia tăng.
- Các nước Đông Nam Á được chia ra làm 2 nhóm:
+ Các nước Đông Nam Á đại lục, còn được gọi là các nước Đông Dương, bao gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, và (Tây) Malaysia.
+ Các nước Đông Nam Á biển, còn được gọi là các nước Đông Ấn, bao gồm: Indonexia, (Đông) Malaysia, Singapore, Philippines, Đông Timor, Brunei, Đảo Christmas, Quần đảo Andaman và Nicobar, Quần đảo Cocos (Keeling).