logo

Khủng hoảng kinh tế 1973 được gọi là

Câu trả lời đúng nhất: Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1973 còn được gọi là cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Khủng hoảng dầu mỏ bắt đầu diễn ra từ ngày 17/10/1973 khi các nước thuộc Tổ chức Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) quyết định ngừng cung cấp nhiên liệu sang Mỹ, Nhật và Tây Âu, nhằm trừng phạt cho sự ủng hộ của nhóm này đối với Israel trong cuộc xung đột giữa Israel và liên quân Ai Cập - Syria. Lượng dầu bị cắt giảm tương đương với 7% sản lượng của cả thế giới thời kỳ đó. Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 trên quy mô toàn cầu. Ngày 16/10/1973, giá dầu mỏ từ 3,01 USD nhảy lên 5,11USD một thùng, và tăng đến gần 12 USD vào giữa 1974.

Để hiểu rõ hơn về cuộc khủng hoảng dầu mỏ, mời các bạn đến với phần nội dung dưới đây nhé.


1. Nguyên nhân của khủng hoảng dầu mỏ.

Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 là "cuộc chiến tranh Yom Kippur" (Yom Kippur là tên ngày lễ lớn nhất của người Do thái- lễ Sám hối) xảy ra ngày 06/10/1973. Đây là cuộc chiến tranh giữa một bên là Ai Cập-Syria cùng các đồng minh thuộc thế giới Ả Rập và một bên là Israel cùng các đồng minh chính là Mỹ, Nhật và một số nước trong EU hiện nay. Trong cuộc chiến tranh này, một động thái hỗ trợ chiến tranh quân sự của bên Ai Cập-Syria chính là việc ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang các nước ủng hộ Israel từ 10/1973 tới 4/1974, việc này đã được "Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ"(Các nước Ả Rập trong OPEC, Ai Cập và Syria) thực hiện rất tốt.

Khủng hoảng kinh tế 1973 được gọi là

Có một tài liệu khác thì lại cho biết nguyên nhân khác của cuộc khủng hoảng 1973:

Cuối năm 1973, một cuộc khủng hoảng dầu lửa bắt nguồn từ cuộc chiến tranh vùng Vịnh chỉ trong mấy tháng đã “cuốn sạch” một nửa bán cầu rộng lớn. Tuy nhiên, điều mà mọi người không biết đến chính là, sự bùng nổ cuộc khủng hoảng này trên thực tế là hậu quả các hãng dầu mỏ lớn và các nhà đầu cơ tài chính của Anh – Mỹ đã nhúng tay vào dưới sự ủng hộ của chính phủ.

Chinanews ngày 3/9 đưa tin, một học giả chính trị Đức đã dùng lịch sử khoa học thiết thực để phân tích, vén bức màn bí mật về việc các nước phương Tây (chủ yếu là Anh, Mỹ) sử dụng vũ khí dầu mỏ để tạo dựng sự bá quyền toàn cầu của mình.

Tháng 5/1973, 84 chính trị gia và giới tài chính hàng đầu thế giới đã tề tựu tại hòn đảo du lịch Baden của gia tộc Wallenberg, Thụy Điển. Trong cuộc họp bí mật do “Câu lạc bộ Bilderberg” tổ chức, ông Levy đại diện cho phía Mỹ đã miêu tả sinh động những lợi ích thu được của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC, tức là viễn cảnh tăng trưởng gấp 4 lần từ nguồn lợi dầu mỏ. Cuộc gặp mặt tập thể này nhằm thao túng dòng chảy đô la dầu mỏ sắp xảy ra.

Từ năm 1945 đến nay, do các công ty dầu mỏ của Mỹ thống lĩnh thị trường năng lượng, đồng USD với tiêu chuẩn định giá dầu mỏ đã trở thành thông lệ quốc tế. Do đó, với việc giá dầu quốc tế đột nhiên tăng mạnh cũng đồng nghĩa với việc lượng nhu cầu đồng USD dùng để thu mua dầu mỏ cũng đã tăng theo. Để hành động, họ đã quyết định sử dụng vũ khí quyền lực tối cao để khống chế dòng chảy dầu mỏ của thế giới.

Ngày 6/10/1973, cuộc “chiến tranh Yom Kippur” tại Trung Đông bùng nổ và hậu quả của nó vô cùng nghiêm trọng. Thậm chí kiểu “ngoại giao con thoi” của cựu Ngoại trưởng Mỹ Kissinger trên thực tế đều sắp xếp dựa trên cương lĩnh của hội nghị Baden. Kết quả, nước sản xuất dầu mỏ Ả rập cũng đã trở thành “nạn nhân bất đắc dĩ”, còn tổ hợp lợi nhuận Anh – Mỹ đáng ra phải chịu trách nhiệm lại bình an vô sự núp đằng sau.

Ngày 16/10/1973, OPEC quyết định nâng giá dầu mỏ từ 3,01USD/thùng lên 5,11USD/thùng, biên độ tăng lên tới 70% (đến giữa năm thứ hai, con số này đạt gần 12USD). Ngày hôm sau, các nước thành viên OPEC chính thức tuyên bố ngừng xuất khẩu dầu mỏ cho Mỹ và Hà Lan. Cho đến lúc đấy, cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất làm chấn động lịch sử thế giới bùng phát toàn diện.

>>> Xem thêm: Đặc điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933)


2. Diễn biến của khủng hoảng dầu mỏ

Vào ngày 17/10 năm 1973, Tổ chức Các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã thực hiện điều mà họ gọi là “ngoại giao dầu mỏ”; theo đó, họ tuyên bố sẽ không bán dầu cho bất kỳ nước nào đã ủng hộ Israel trong cuộc Chiến tranh Yom Kippur giữa nước này với Ai Cập, Syria và Jordan. Cuộc khủng hoảng năng lượng này đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên xăng dầu giá rẻ và khiến giá trị cổ phiếu trên sàn chứng khoán New York giảm 97 tỷ USD, mở ra cuộc suy thoái tồi tệ nhất của nước Mỹ.

Vào giữa năm 1973, thậm chí trước cả khi có lệnh cấm vận của OPEC, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã bắt đầu nhen nhóm tại Mỹ. Trữ lượng dầu trong nước bấy giờ khá thấp, chỉ khoảng 52 tỷ thùng, đủ cung trong vòng 10 năm. Hàng năm Mỹ đều phải nhập khẩu khoảng 27% lượng dầu thô họ cần, và giá dầu bắt đầu tăng cao. Cuộc chiến năm 1973 với Israel khiến mọi việc thêm tồi tệ.

OPEC tuyên bố sẽ trừng phạt các đồng minh của Israel bằng cách cắt giảm sản xuất 5%/tháng, cho đến khi Israel rút khỏi những vùng chiếm đóng và trả lại quyền cho người dân Palestine. Họ cũng tuyên bố rằng “kẻ thù” thực sự của các nước Ả Rập (thực ra là ám chỉ Mỹ và Hà Lan) sẽ phải chịu “cấm vận toàn diện” kéo dài.

Khủng hoảng kinh tế 1973 được gọi là

Trước đó, giá của mỗi thùng dầu là do các công ty tự định, nhưng kể từ tháng 12/1973, OPEC tuyên bố các thành viên của họ sẽ tự quyết mức giá dầu xuất khẩu. Kết quả là giá của một thùng dầu đã lên đến 11,65 USD; cao hơn 130% so với giá dầu hồi tháng 10 và cao hơn 387% so với cùng kỳ năm trước.

Giá dầu trong nước cũng tăng mạnh, nhưng vẫn thiếu hụt dầu. Người dân phải xếp hàng dài chờ đợi nhiều giờ trước các trạm xăng – thậm chí ở một số nơi tại New Jersey, hàng người đã dài tới bốn dặm! Tính đến lúc cấm vận được dỡ bỏ vào tháng 3/1974, giá xăng bán lẻ trung bình đã tăng từ 34 cent/gallon lên 84 cent/gallon. Doanh số bán các loại ô tô nhỏ và tiết kiệm nhiên liệu đã tăng vọt. Cùng lúc đó, nhu cầu dành cho các loại xe hạng nặng, “ngốn” rất nhiều xăng – mà phần lớn các công ty xe hơi Mỹ đang sản xuất – lại sụt giảm mạnh, khiến ngành công nghiệp ô tô Mỹ rơi vào thảm kịch.


3. Hệ lụy

Trên bình diện quốc tế, việc tăng giá đã làm thay đổi vị thế cạnh tranh trong nhiều ngành. Tại các trạm xăng ở phương Tây, xe xếp hàng dài nhiều kilomet; một số quốc gia đưa ra quy định hạn chế tiêu thụ xăng dầu hàng ngày đối với các phương tiện cá nhân; bắt đầu xuất hiện những chiếc xe ô tô cỡ nhỏ thành thị thay vì những chiếc xe limousine sang trọng nhưng tốn xăng vốn có nhu cầu trong những năm 50 và 60. Nền kinh tế không thể tăng trưởng nếu không tiêu thụ một lượng lớn xăng và các sản phẩm dầu mỏ khác. Lệnh cấm vận khiến các công ty dầu mỏ phải tìm kiếm những cách thức mới để tăng nguồn cung dầu, cả ở những địa hình hiểm trở như Bắc Cực.

Từ tháng 5/1973 đến tháng 6/1974, tại Mỹ, giá bán lẻ trung bình của một gallon xăng thông thường tăng 43%. Chính quyền các bang yêu cầu người dân không treo đèn Giáng sinh. Oregon đã cấm hoàn toàn lễ Giáng sinh và chiếu sáng thương mại. Các chính trị gia kêu gọi một chương trình phân phối xăng dầu quốc gia, yêu cầu các nhà bán lẻ xăng dầu tự nguyện không bán xăng vào các tối cuối tuần.

Sự gián đoạn sản xuất, phân phối và giá cả là nguyên nhân dẫn đến suy thoái, thời kỳ lạm phát quá mức, năng suất giảm và tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Một số nhà nghiên cứu coi "cú sốc giá dầu" năm 1973 và các năm 1973–74 đi kèm sự sụp đổ của thị trường chứng khoán có ảnh hưởng dai dẳng đến nền kinh tế Mỹ, đòi hỏi giải quyết các mối đe dọa đối với an ninh năng lượng.

Anh, Đức, Italy, Thụy Sĩ và Na Uy cấm bay, lái xe và chạy thuyền vào Chủ nhật. Thụy Điển cắt giảm xăng và dầu cho việc sưởi ấm. Hà Lan áp dụng án tù cho những người sử dụng nhiều hơn khẩu phần điện của họ. Trong số 9 thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), Hà Lan phải đối mặt với một lệnh cấm vận hoàn toàn. Anh và Pháp nhận được nguồn cung gần như không bị gián đoạn, là phần thưởng vì họ đã từ chối cho phép Mỹ sử dụng các sân bay và ngừng cung cấp vũ khí, vật tư cho cả người Arab và Israel.

Sáu quốc gia EEC khác phải đối mặt với việc cắt giảm một phần. Mặc dù ít bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận, Vương quốc Anh vẫn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng năng lượng; một loạt các cuộc đình công của công nhân khai thác than và đường sắt trong mùa đông năm 1973–74 đã trở thành nhân tố chính dẫn đến sự thất bại của chính phủ Công đảng. Chính phủ Bảo thủ mới yêu cầu người Anh chỉ sưởi ấm một phòng trong nhà của họ trong suốt mùa đông. Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và tạo ra rạn nứt trong NATO.

Một số quốc gia châu Âu và Nhật Bản đã tìm cách tách mình khỏi chính sách đối ngoại của Mỹ ở Trung Đông để tránh trở thành mục tiêu của cuộc tẩy chay. Trong khi đó, Liên Xô trở thành nhà cung cấp năng lượng độc quyền và kiếm được rất nhiều tiền - thu từ xuất khẩu dầu mỏ đạt 200 tỷ USD/năm, ngân sách nhà nước rủng rỉnh. Giữa và cuối những năm 1970 được coi là “thời kỳ hoàng kim” của Liên Xô. Để giải quyết vấn đề trên, chính quyền Nixon đã bắt đầu các cuộc đàm phán đa phương, sắp xếp để Israel rút khỏi Bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan. Lời hứa về một thỏa thuận giữa Israel và Syria đủ để thuyết phục các nhà sản xuất dầu Arab dỡ bỏ lệnh cấm vận vào tháng 3/1974.

-----------------------

Trên đây Top lời giải đã cùng các bạn tìm hiểu về cuộc khủng hoảng kinh tế 1973 . Chúng tôi hi vọng các bạn đã có kiến thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc các bạn học tốt. 

icon-date
Xuất bản : 27/05/2022 - Cập nhật : 27/05/2022