Câu hỏi:
- Hãy kể tên ba tác giả tiêu biểu của thơ đường và “tứ đại danh tác” của văn học Trung Quốc.
- Hãy nêu các thành tựu tiêu biểu của sử học Trung Quốc thời phong kiến.
Lời giải:
- Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị là ba tác giả tiêu biểu của thơ Đường
- Thủy Hử (Thi Nại Am), Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung), Tây Du Kí (Ngô Thừa Ân), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần) là tứ đại danh tác của Trung Quốc
- Sử kí của Tư Mã Thiên, Hán thư, Đường thư, Tống sử, Minh sử,... là các thành tựu sử học tiêu biểu của Trung Quốc
* Các giai đoạn của thơ Đường
Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (714 - 766), Trung Đường (766 - 835), Vãn Đường (835 - 907).
Thời Sơ Đường, các nhà thơ mệnh danh là "Tứ kiệt" gồm Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột đã đổi được phần nào phong khí uỷ mị của thơ các triều đại trước. Tới Trần Tử Ngang thì có phong trào đổi mới thi ca theo tinh thần phong nhã của "Kinh thi" và "phong cốt Hán Nguỵ", chủ trương làm thơ phải có "ký thác", nghĩa là nói lên tâm tình của mình, ghi lại cảm xúc thật sự của mình trước hiện thực đời sống, bỏ hẳn thơ sắc tình đời Lục triều, và thơ ca công tụng đức, thơ ứng chế của một số nhà thơ đầu đời Đường như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn. Các nhà thơ sau Trần Tử Ngang làm thơ "ký thác" đều theo 2 khuynh hướng chính là trữ tình, lãng mạn, hoặc hiện thực xã hội. Ba đại biểu lớn là Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.
Màu sắc phong cách của các nhà thơ đời Đường rất khác nhau, tuỳ người sáng tác theo đạo Nho, đạo Phật hoặc theo Lão Trang.
* Các thể thơ trong Đường thi
a. Cổ thể hay cổ phong
Thể thơ này không có luật lệ nhất định. Không hạn định số câu. Cách gieo vần rất rộng rãi, uyển chuyển. Có thể dùng độc vận (một vần), liên vận (nhiều vần) hay không hiệp vận. Vận chính là các vận thuộc cùng một vận bộ. Vận thông là các vận thuộc hai vận bộ khác nhau, có âm thanh tương tự. Vận chuyển là những vận có âm vốn không giống nhau. Ngoài ra, thể này không phải theo niêm, luật, cũng không bắt buộc phải có đối ngẫu.
b. Cận thể hay kim thể
Người đời Đường gọi lối thơ tuyệt cú và lối thơ luật là cận thể hay kim thể, để phân biệt cổ thể hay cổ phong nói trên. Thơ cận thể thật ra đã xuất hiện trong đời Lục Triều, sau công trình biện biệt tứ thanh của nhóm Thẩm Ước, và việc phân định vận của nhóm Lục Pháp Ngôn (Lục Pháp Ngôn là tác giả sách Thiết vận, người đời Tuỳ Văn Đế (581-640)). Nhưng đến đời Ðường, mới có sự phân biệt rõ rệt thơ cổ với thơ cận thể.
c. Luật thi
Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường âm thẩm thể nói rằng: "Luật đây là sáu luật, là luật hoà hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm".
Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoặc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.
d. Tuyệt cú
Trong một bài tuyệt cú, câu 1 là khởi, câu 2 là thừa, câu 3 là chuyển, câu 4 là hợp. Bài Khuê oán của Vương Xương Linh là thí dụ điển hình của bố cục thơ này. Khi làm thơ tuyệt cú, các nhà thơ đời Ðường cũng có thái độ như khi làm luật thi, nghĩa là không chịu sự câu thúc chặt chẽ của quy tắc. Tóm lại, lối thơ cận thể với trật tự cẩn nghiêm, tề chỉnh, nói lên ảnh hưởng của Nho giáo, là một thành công lớn của người đời Ðường và là một bước tiến quan trọng của thi ca Trung Quốc.
e. Nhạc phủ
Nhạc phủ là một loại thơ làm theo nhiều thể khác nhau và có công dụng trong ca nhạc. Ðời Ðường, nhạc phủ gồm có những bài thơ cổ phong, luật thi và nhất là tuyệt cú. Vương Thế Trinh đời Thanh nói rằng: "Thơ tuyệt cú của ba trăm năm đời Ðường chính là nhạc phủ của ba trăm năm đời Ðường".