Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc Việt Nam đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc tiêu biểu. Có rất nhiều câu truyện đã viết lại về họ, cũng có những câu truyện chỉ là truyền miệng. Bài viết dưới đây, Toploigiai đã tổng hợp lại một số bài mẫu cho câu hỏi Hãy kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng danh nhân của nước ta, mời các bạn cùng tham khảo!
Năm đó, giặc Nguyên cho sứ thần sang giả vờ mượn đường để xâm chiếm nước ta. Thấy sứ giặc ngang ngược đủ điều, Trần Quốc Toản vô cùng căm giận.
Vào một buổi sáng, biết Vua họp bàn việc nước ở dưới thuyền rồng, Quốc Toản quyết đợi gặp Vua để nói hai tiếng "xin đánh". Đợi từ sáng đến trưa, vẫn không gặp được, cậu bèn liều chết xô mấy người lính gác ngã chúi, xăm xăm xuống bến. Quân lính ập đến vây kín. Quốc Toản mặt đỏ bừng bừng, tuốt gươm, quát lớn:
- Ta xuống xin bệ kiến Vua, không kẻ nào được giữ ta lại.
Vừa lúc ấy, cuộc họp dưới thuyền rồng tạm nghỉ, Vua cùng các vương hầu ra ngoài mui thuyền.
Quốc Toản bèn chạy đến, quỳ xuống tâu:
- Cho giặc mượn đường là mất nước. Xin Bệ hạ cho đánh!
Nói xong, cậu tự đặt thanh gươm lên gáy, xin chịu tội.
Vua truyền cho Quốc Toản đứng dậy, ôn tồn bảo:
- Quốc Toản làm trái phép nước, lẽ ra phải trị tội. Nhưng xét thấy em còn trẻ mà đã biết lo việc nước, ta có lời khen.
Nói rồi, Vua ban cho Quốc Toản một quả cam.
Quốc Toản tạ ơn Vua, chân bước lên bờ mà lòng ấm ức: "Vua ban cho cam quý nhưng xem ta như trẻ con, vẫn không cho dự bàn việc nước". Nghĩ đến quân giặc đang lăm le đè đầu cưỡi cổ dân mình, cậu nghiến răng, hai bàn tay bóp chặt.
Thấy Quốc Toản trở ra, mọi người ùa tới. Cậu xòe bàn tay phải cho họ xem cam quý Vua ban. Nhưng quả cam đã nát từ bao giờ.
Ngày xưa, ở làng Gióng có một cậu bé kì lạ, đã lên ba tuổi mà vẫn không biết đi, không biết nói, chỉ đặt đâu nằm đấy trơ trơ.
Giặc Ân từ phương Bắc tràn sang xâm lấn bờ cõi nước ta. Nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi, cầu người hiền tài đứng ra cứu nước. Nghe tiếng loa rao, cậu bé bỗng nhiên biết nói. Cậu nhờ mẹ gọi sứ giả vào rồi bảo: "ông hãy về tâu với nhà vua, đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một chiếc nón sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc".
Kể từ khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng chẳng no, quần áo vừa may xong đã chật. Mẹ cậu không đủ thóc gạo, cả làng phải góp lương thực để nuôi cậu.
Khi nhà vua cho mang các thứ tới, Gióng vươn vai vụt trở thành một tráng sĩ dũng mãnh. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, đội nón sắt, cầm roi sắt, cưỡi lên lưng ngựa sắt. Ngựa sắt hí vang, phun lửa, lao ra trận. Tráng sĩ dùng roi sắt quất túi bụi vào kẻ thù. Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ từng bụi tre bên đường đánh tiếp. Giặc chết như ngả rạ.
Dẹp xong giặc nước, Gióng cởi áo giáp sắt, nón sắt, bỏ lại dưới chân núi, lưu luyến nhìn lại quê hương một lần cuối rồi cưỡi ngựa từ từ bay lên trời. Nhân dân trong vùng ghi nhớ công ơn to lớn của Gióng, lập đền thờ và suy tôn là Thánh Gióng.
Nước Việt Nam ta là một đất nước của rất nhiều những anh hùng, trong đó, những nữ anh hùng cũng rất nhiều và xuất sắc. Trong đó, người mà em ấn tượng nhất là bà Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong phong trào du kích ở vùng tạm chiếm, những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp bà vừa là người phụ nữ duy nhất được giữ chức vụ bí thư, vừa là chỉ huy một trung đội du kích ở xã. Năm 1950, bà giật mìn tiêu diệt một tiểu đội địch đi tuần tra trên đường 39. Sau này, trong một lần hoạt động, bà không may bị giặc bắt được. Chúng đã tra tấn bà dã man, đến chết đi sống lại nhiều lần, nhưng bà vẫn nhất quyết không chịu khai. Thế là cuối cùng giặc buộc phải thả bà ra. Sau khi được thả, bà trở về quê. Tại đây, bà lại được chi bộ bố trí nhiệm vụ trong đội du kích. Ngoài việc luyện tập canh gác chống giặc quấy rối và tấn công địch, bà còn lãnh đạo chị em khai hoang, cấy lúa, chăn nuôi gà để có lượng thực và bàn lấy tiền mua sắm vũ khí.
Năm 1951, bằng tay không, bà đã dùng mưu bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ, thu được bảy khẩu súng. Sau đó bà lại dùng mưu bắt tên sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận càn quét của chúng ở xã. Năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, bà được Hồ Chủ Tịch tặng một khẩu súng ngắn, được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, huân chương Quân công hạng Ba và chị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một vị nữ anh hùng kính trọng. Khiến cho em và rất nhiều người ngưỡng mộ. Em sẽ noi gương bà, học tập, rèn luyện hết sức mình để cống hiến cho tổ quốc.
Năm 34 sau công nguyên, nhà Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là một người tham lam tàn bạo. Dân chúng vô cùng oán hận, Lạc hầu, Lạc tướng cũng căm hờn. Còn Lạc tướng huyện Châu Diên là Thi Sách, mưu tính việc chống quân Tàu. Tô Định hay được bèn giết Thi Sách đi. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc nổi lên đánh Tô Định để báo thù cho chồng, rửa hận cho nước.
Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh, nay thuộc Hà Nội. Khi bà cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa thì các Lạc tướng và dân chúng hưởng ứng rất đông. Chẳng bao lâu, quân Hai Bà Trưng tràn đi khắp nơi, chiếm được 65 thành trì. Tô Định chống cự không lại trốn chạy về Tàu. Hai Bà lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh (năm 40 sau tây lịch). Dân chúng vui mừng độc lập.
Trưng Nữ Vương trị vì được hơn một năm thì nhà Đông Hán sai danh tướng là Mã Viện đem binh sang đánh. Quân của Mã Viện là quân thiện chiến, quân ta thì mới nhóm lên, nhưng nhờ sự dũng cảm, quân ta thắng được mấy trận đầu. Quân giặc phải rút về đóng ở vùng Lãng Bạc (tức gần Hồ Tây ở Hà Nội bấy giờ). Sau đó, Mã Viện được thêm viện binh, dùng mưu lừa quân ta kéo lên mạn thượng du rồi đánh úp. Hai Bà thua trận nên rút quân về giữ Mê Linh.
Mùa thu năm 43, Mã Viện đem binh vây đánh thành Mê Linh. Quân ít, thế cùng. Hai Bà phải bỏ chạy. Mã Viện xua quân đuổi theo. Hai Bà nhảy xuống sông Hát (chỗ sông Đáy đổ ra sông Hồng Hà) trầm mình để khỏi sa vào tay giặc.
Hai Bà Trưng làm vua không được bao lâu nhưng là hai vị anh thư cứu quốc đầu tiên của nước ta nên được hậu thế sùng bái đời đời.
Hiện nay, ở làng Hát Môn, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Nội và làng Đồng Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ Hai Bà, hàng năm, đến ngày mồng sáu tháng hai âm lịch là ngày hội để nhớ ơn hai vị nữ tướng.
Khi nói đến Hoàng đế Quang Trung, người ta thường nghĩ đến một vị vua bách chiến bách thắng, mưu trí dũng lược vô song với những chiến công oai hùng, với nghệ thuật quân sự thần tốc… Tuy nhiên, cũng giống như các vị “thiên tử” khác, xung quanh vị hoàng đế này có nhiều giai thoại huyền ảo, lạ lùng. Câu chuyện “Chữ hiện trên lá cây làm điềm báo” do cô giáo em kể đã để lại trong em nhiều ấn tượng khó phai. Thời anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mới khởi nghĩa, bỗng người dân khắp vùng đất Tây Sơn khi vào rừng kiếm củi, săn bắt thì thấy một chuyện lạ, trên các lá cây rừng lớn xuất hiện nhiều chữ. Những người có học đọc được thành câu: “Nguyễn Nhạc vi vương, Nguyễn Huệ vi tướng” (Nghĩa là: Nguyễn Nhạc làm vua, Nguyễn Huệ làm tướng), ai cũng cho là điềm lạ trời báo sự xuất hiện chân chúa cứu đời.Chuyện lạ đó nhanh chóng được lan truyền, dân chúng khắp vùng Tây Sơn thượng đạo, Tây Sơn hạ đạo cho đến các nơi khác rủ nhau nô nức đi theo anh em họ Nguyễn.Thực ra đây là một mẹo của Nguyễn Huệ, để thu hút quần chúng và lấy uy tín dựa trên những điềm báo thần kỳ mà người đương thời tin tưởng, ông đã lập kế học theo cách của vua Lê Thái Tổ khi xưa, bí mật sai người dùng mỡ viết chữ lên lá rừng, kiến ăn mỡ đục lá thành điềm trời báo để quần chúng kính phục. Chính vì thế ngày nay ở vùng Tây Sơn, Bình Định vẫn lưu truyền câu ca:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Kiến trổ lá rừng
Trời trưng gươm báu…”.
Đây là một cách thu phục lòng dân rất đặc biệt, lá được kiến đục trổ thành chữ khi rụng xuống, theo dòng suối chảy về xuôi làm điềm trời báo cho dân. Nguyễn Huệ còn cho người thân tín dùng dao vạt các thân cây cổ thụ rồi khắc trên đó 8 chữ này cũng như để làm điềm trời báo về thiên mệnh đế vương của anh em nhà Tây Sơn vì thế cũng có câu rằng:
“Ai vô rừng cấm
Thấy tấm biển đề:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Đồn đại bốn phương
Tây Sơn dấy nghĩa”.
Câu chuyện đơn giản song hết sức hấp dẫn không chỉ giúp em có thêm những kiến thức mà còn thêm khâm phục trí tuệ và sự thông minh của vua Quang Trung- người đã lãnh đạo quân và dân ta chiến thắng 29 vạn quân Thanh.
--------------------------------
Hy vọng thông qua những bài mẫu phía trên, Toploigiai có thể giúp các bạn hiểu rõ hơn về câu hỏi Hãy kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng danh nhân của nước ta. Chúc các bạn học tập tốt!