Ấn F5 vì chúng tôi sẽ cập nhật ngay khi có đáp án
Phần I: Đọc hiểu
Câu 1: Thể thơ của đoạn trích: Thể thơ tự do.
Câu 2: Những tính từ miêu tả vẻ đẹp của tuổi trẻ trong đoạn thơ là: Trong, tinh khiết, khỏe, mơn mởn.
Câu 3: Tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong đoạn thơ: - Biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong đoạn thơ: "tuổi trẻ như sao trời mát mắt, cháy bùng như lửa thiêng liêng".
- Tác dụng của biện pháp tu từ so sánh:
+ Tăng sức gợi hình gợi tả cho câu thơ;
+ Gợi nên vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi tràn đầy sức sống của tuổi trẻ;
+ Nhấn mạnh tinh thần nhiệt huyết, sức trẻ, khát vọng cống hiến của tuổi trẻ đối với Tổ quốc.
Câu 4: Suy ngẫm của tác giả về ý nghĩa sự hy sinh của tuổi trẻ:
- Dẫu có hy sinh, vẻ đẹp tâm hồn, tình yêu tổ quốc, tinh thần chiến đấu của những người trẻ tuổi ấy vẫn sống mãi như ánh sao chói lên lần cuối.
- Tinh thần bất khuất ấy sẽ là hành trang cho các thế hệ mai sau. Họ sẽ bất tử cùng dân tộc.
- Sự hy sinh của những con người trẻ tuổi trong đoạn trích chính là bài học về lẽ sống cho thế hệ trẻ hôm nay.
II. Phần làm văn
Câu 1. Viết đoạn văn về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận
Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự cần thiết phải biết sống cống hiến. Có thể theo hướng:
Thế hệ trẻ cần có trách nhiệm trong cả suy nghĩ và hành động để tiếp bước các thế hệ đi trước. Ở khía cạnh suy nghĩ, thế hệ trẻ cần có nhận thức đúng đắn về sức trẻ (khát vọng, mơ ước, nhiệt huyết,…) và những hiểu biết đúng đắn, sâu sắc về lịch sử hào hùng, vẻ vang, về truyền thống yêu nước của dân tộc; từ đó có ý thức trân trọng những di sản mà cha ông đã để lại, có ý thức giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của thế hệ trước. Ở khía cạnh hành động, thế hệ trẻ nên học tập, trau dồi bản thân, rèn luyện đạo đức, sống vì tập thể, sống có ước mơ, hoài bão, lí tưởng; tích cực tham gia vào các hoạt động công ích, các hoạt động tình nguyện, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ người khác.
d. Chính tả, ngữ pháp
Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. Đề bài:
a. Bảo đảm cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận
Nội dung và nghệ thuật đoạn truyện; liên hệ đến hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:
I. Mở bài:
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Tác giả: Nguyễn Minh Châu là cây bút văn xuôi tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Trước những năm tám mươi, ông sáng tác theo khuynh hướng sử thi thiên về trữ tình, lãng mạn. Sau đó, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, triết lí nhân sinh. Là người mở đường tinh anh, cây bút tiên phong trong văn học thời kì đổi mới.
- Tác phẩm: "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những truyện in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu, thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
* Khái quát vấn đề nghị luận: Phát hiện thứ nhất của nhân vật Phùng, liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
II. Thân bài:
1. Phân tích đoạn trích - Phát hiện thứ nhất của nhân vật Phùng.
a. Giới thiệu vị trí đoạn trích.
Đoạn trích nằm ở phần đầu tiên của tác phẩm khi nhân vật Phùng sau bao ngày tìm kiếm cũng phát hiện được một "cảnh đắt trời cho".
b. Phân tích: Phát hiện thứ nhất - về cái tuyệt mĩ, tuyệt thiện:
- Khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai hiện lên đẹp đẽ, tuyệt bích như bức họa mực tàu.
- Khung cảnh rộng lớn của biển cả với hình ảnh chiếc thuyền thơ mộng, thanh bình xuất hiện giữa bầu sương mù trắng như sữa lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
- Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ.
-> Cảm nhận tinh tế cùng với đôi mắt của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống mà anh cho rằng đây là "cảnh đắt trời cho". Đó là bức họa diệu kỳ do thiên nhiên, cuộc sống ban tặng cho con người; là sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng khao khát được chứng kiến. Chính vì thế người nghệ sĩ cảm thấy bị rung động, hạnh phúc đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
- Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lý của sự hoàn mỹ, thì ra đứng trước cảnh đẹp, trước sự toàn bích, hài hòa, lãng mạn của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để trở nên trong trẻo hơn.
=> Phát hiện đầu tiên của nhân vật Phùng cho chúng ta thấy hình ảnh của một người nghệ sĩ chân chính, một người nghệ sĩ với sự một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu cái đẹp và trân trọng cái đẹp. Đối với anh cái đẹp chính là đạo đức. Thế nhưng cũng từ phát hiện này ta cũng nhận ra cái nhìn của nhân vật Phùng có chút phiến diện, chỉ toàn màu hồng, toàn những điều đẹp đẽ mà chưa mang sự từng trải, cái nhìn đa chiều.
2. Liên hệ với hình ảnh chiếc thuyền chống chọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
- Hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích: là hình ảnh đẹp, bình dị có chút thơ mộng. Đây chính là hình ảnh tượng trưng cho nghệ thuật, vẻ đẹp của cuộc sống.
- Hình ảnh chiếc thuyền phải chống chọi giữa phá: là hình ảnh mang tính hiện thực thể hiện những khó khăn, những góc khuất của cuộc đời.
-> Nhìn hiện tượng thì đây là hai hình ảnh đối lập nhau nhưng trên thực tế cả hai con thuyền đều hướng đến giá trị riêng: một giá trị là cái dễ thấy, dễ nhìn, một giá trị thì cần đào sâu, tìm tòi mới có thể phát hiện được. Bởi vậy, người nghệ sĩ đứng trước cái đẹp không chỉ đơn giản là nhìn thấy mà còn cần phải nhìn thấu.
=> Thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống: Nghệ thuật phải gắn liền và bắt nguồn từ cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống. Và đối với người nghệ sĩ cũng cần có con mắt tinh tường, thấu cảm trước mọi sự việc của cuộc đời, để từ đó không chỉ phát hiện ra những vẻ đẹp bề nổi mà còn phát hiện những vẻ đẹp khuất lấp, gai góc của cuộc đời này.
III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Khẳng định vị thế của nhà văn.
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1:
Thể thơ tự do.
Câu 2:
Để lại: Bãi mới của sông xanh ngát Đất đai lấn dần ra biển Tâm hồn đằm thắm phù sa/ dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ.
Câu 3:
Câu thơ trên thể hiện những vai trò của sông Hồng:
- Sông Hồng làm nên giá trị văn hoá, văn học, làm nên đời sống tinh thần, vật chất cho con người.
- Sông hồng làm nên lịch sử dân tộc.
Câu 4:
Câu trên có thể hiểu: Sông Hồng của ngày hôm nay mang trong mình cả máu, nước mắt của dân tộc trong những năm oằn mình chiến đấu với giặc. Nhưng sông Hồng của là niềm vui chiến thắng.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
1. Giới thiệu chung: Sự cần thiết trân trọng giá trị văn hoá dân tộc
2. Giải thích: Văn hoá dân tộc là những giá trị tốt đẹp, ý nghĩa về vật chất, tinh thần tồn tại qua hàng nghìn năm. Nét văn hoá ấy làm nên chất riêng, bản sắc riêng của con người Việt.
=> Giữ gìn, trân trọng giá trị văn hoá dân tộc là điều vô cùng quan trọng đối với mỗi con người.
3. Bàn luận:
* Vì sao cần phải trân trọng giá trị văn hoá dân tộc?
- Biểu hiện của lòng yêu đất nước.
- Bảo vệ giá trị văn hóa là bảo vệ nền tảng tinh thần của dân tộc.
- Những giá trị văn hoá dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết, nối kết các thế hệ.
* Cần làm gì bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc?
- Nhà nước có chính sách bảo vệ những giá trị văn hoá.
- Mỗi cá nhân cần ý thức được ý nghĩa của những giá trị văn hoá, từ đó bảo vệ, trân trọng những giá trị đó.
* Mở rộng:
- Phê phán những kẻ phá hoại những nét đẹp của văn hoá dân tộc.
- Cần học tập để hiểu rõ giá trị văn hóa dân tộc.
- Tuyên truyền, tham gia giữ gìn, bảo vệ giá trị văn hóa.
4. Tổng kết.
Câu 2:
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.
+ Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tình thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, từ đó bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm
II. Thân bài
1) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích.
a) Giới thiệu nhân vật
- Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, cơ cực, phải tha phương cầu thực, trở thành dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định kiến của xã hội. Chồng bà đã mất từ sớm, nhà chỉ còn mẹ góa con côi nuôi nhau đắp đổi qua ngày.
- Cả đời bà lão long đong, lận đận, đến lúc gần đất xa trời mà vẫn không có tiền để thực hiện được ước mơ lớn nhất là lấy vợ cho con. Và giữa lúc đói kém, vào tâm điểm nạn đói năm 1945, người chết như ngả rạ khắp nơi, anh con trai lại lấy được vợ, đúng hơn là “nhặt vợ”.
- Vì quá bất ngờ nên bà lão hết sức ngạc nhiên, đến mức không dám tin vào những gì mình nhìn thấy và nghe thấy. Mãi rồi cuối cùng bà lão cũng hiểu ra “cơ sự”. Đó là tình huống để bắt đầu những dòng cảm xúc của bà cụ Tứ trong đoạn trích.
b) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích
* Đoạn 1: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”
-> Phản ứng đầu tiên của bà cụ Tứ sau khi nghe lời giới thiệu của con trai về người đàn bà lạ “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”, khi hiểu ra sự tình là “cúi đầu nín lặng”.
- “Bà lão hiểu rồi”: Phải sau rất nhiều sự kiện, đến tận lúc này, khi anh con trai phải nói một cách tường minh thì bà cụ Tứ mới hiểu. Một người phụ nữ trải đời, một người mẹ lẽ thường sẽ rất nhạy cảm với chuyện hệ trọng cả đời của đứa con trai độc nhất, thế mà mãi đến bây giờ mới hiểu ra sự tình. Vô lí nhưng lại hợp lí bởi bà không thể tưởng tượng con trai bà có thể lấy vợ dễ dàng đến thế.
- Cái cử chỉ cúi đầu cho thấy sự nặng trĩu trong tâm tư khi bà không chỉ hiểu ra sự tình- rằng người đàn bà lạ đứng ở đầu giường thằng con trai bà và chào bà bằng u kia chính là “vợ nhặt” theo không về làm con dâu của bà, mà bà còn “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự” bằng những trải nghiệm của cả một cuộc đời nghèo khổ dằng dặc. Cho nên lẽ ra phải mừng rỡ thì bà cúi đầu, thứ ngỡ là hạnh phúc với bà lại trở thành gánh nặng. Niềm vui không thể cất cánh bởi nỗi lo áo cơm ghì sát đất.
- Bà nín lặng vì không biết phải nói gì khi trong bà đang thức dậy bao nhiêu cảm xúc hỗn độn “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”.
+ Bà thấy tủi cho con, cũng là tủi cho mình “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu chấm lửng ấy chính là sự thảm hại đến tận cùng của đói nghèo. Vì vậy mà mối nhân duyên của con trai bà mới trở thành câu chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ rúng. Phút so sánh ấy còn ẩn chứa cả cảm giác tội lỗi, vì không làm tròn bổn phận của người mẹ, lo được cho con một đám cưới trọn vẹn.
+ Bà cũng không tránh khỏi cảm giác lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Câu hỏi không có lời đáp, là vì chính bà cũng không dám hi vọng vào một cái kết lạc quan, khi xung quanh bà là sự bao vây của cái đói, cái chết
-> Giữa những cảm xúc hỗn độn đó, “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Hình ảnh này có sự gặp gỡ với giọt nước mắt khổ đau của lão Hạc “những nếp nhăn xô lại vào nhau ép cho nước mắt chảy ra”. Giọt nước mắt của người già hiếm hoi lắm “Tuổi già hạt lệ như sương” (Nguyễn Khuyến), thế mà vẫn trào ra khóe mắt bởi những cảm xúc dâng trào trong tình huống đặc biệt.
* Đoạn 2: “Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”
-> Sau những giây phút cúi mặt với nỗi lòng nặng trĩu, với những cảm xúc tiêu cực, cuối cùng bà lão cũng ngửng lên để đối mặt với thực tại:
- Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà”, chăm chú quan sát người phụ nữ xa lạ đã dũng cảm theo không con trai bà để xây dựng tổ ấm. Trong tầm mắt nhìn của bà “thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Đó là những cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ của một người đang thiếu tự tin, dường như còn mang theo cả mặc cảm tội lỗi, thậm chí cả một chút sợ hãi. Bởi thị đường đột về đây mà chưa được sự cho phép của người lớn, mà nói như Thúy Kiều thì:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
- Cái tà áo rách bợt đã giúp bà hiểu thêm về gia cảnh của thị, về sự khó khăn đói khổ đến cùng cực, từ đây đã khơi lên ở bà tình thương ở những người đồng cảnh. Thương người, rồi lại thương con mình, vì vậy mà hướng bà đến những ý nghĩ tích cực hơn:
+ Bà nhìn nhận cuộc hôn nhân này là sự may mắn của gia đình bà “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Hơn ai hết, bà hiểu những thiệt thòi của con trai mình: lí lịch ngụ cư, gia cảnh nghèo, ngoại hình lại không hấp dẫn, nên đã đến tuổi dựng vợ gả chồng mà suốt bao lâu nay không lấy nổi vợ. Bây giờ có người sẵn sàng cùng con bà chung tay xây dựng tổ ấm, bà còn mong gì hơn. Như vậy, thay vì coi thường người vợ nhặt của con trai, bà xem thị như ân nhân của gia đình mình.
+ Bà trông chờ, hi vọng vào sự may mắn mơ hồ “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó” và dũng cảm đối mặt với những tình huống xấu nhất “chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?” -> bà nghĩ đến trọn vẹn, thấu đáo mọi chiều để sẵn sàng đón nhận
* Đoạn 3:“Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân.”
-> Cuối cùng, giữa những cảm xúc hỗn độn vừa mừng vừa tủi, với tình yêu thương con và tấm lòng nhân hậu, bà đã mở rộng vòng tay với người con dâu tội nghiệp. Câu nói đầu tiên của bà sau những giây phút cúi đầu nín lặng “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” là sự đón nhận chính thức người con dâu mới. Mừng lòng chứ không phải là bằng lòng miễn cưỡng. “Phải duyên phải kiếp” nghĩa là cuộc hôn nhân do ông tơ bà nguyệt xe duyên chứ không phải chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ rúng nữa. Bà đã khiến cho cuộc hôn nhân của Tràng và người vợ nhặt trở nên bình đẳng, đẹp đẽ như những cuộc hôn nhân bất kì nào khác. Lời đón nhận của bà như trút hẳn gánh nặng đang đè trĩu lồng ngực của anh Tràng “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi” và chắc hẳn đó cũng là những cảm xúc của người con dâu.
* Đoạn 4: “Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
- Những lời dặn dò tiếp sau của bà là sự vun vén cho đôi trẻ, hướng các con vào tương lai tươi sáng “Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Một lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của một bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết.
c) Đánh giá chung:
* Bà cụ Tứ: Đoạn trích là những diễn biến tâm lí rất xúc động của bà cụ Tứ với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc. Từ đó mà bà cụ Tứ hiện lên là linh hồn của tác phẩm, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo, éo le để tạo cơ hội cho nhân vật bộc lộ, tỏa sáng những vẻ đẹp tâm hồn
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ - người mẹ nông dân chất phác mà trải đời sâu sắc
+ Dựng đối thoại sinh động với ngôn ngữ nông dân theo lứa tuổi, giới tính… mộc mạc, chân thực và sinh động tạo được sức hấp dẫn riêng.
2) Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Qua hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót thương với số phận đau khổ của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã phát hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ: dù nghèo đói và khổ cực đến đâu, ngay cả khi kề bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, và không gì có thể cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ
-> Kim Lân tâm sự: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả./.