Giải Lịch sử 9 Chân trời sáng tạo Bài 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) ngắn gọn, hay nhất bám sát nội dung Sách giáo khoa Lịch sử 9 theo chương trình Sách mới. Bài soạn bao gồm 8 câu hỏi được trả lời chính xác, giúp học sinh hiểu kĩ hơn về bài học
Câu hỏi trang 22 Lịch sử 9 CTST: Dựa thông tin trong bài, quan sát tư liệu 4.2, Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra nguyên nhân nào?
Lời giải:
- Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị giữa các nước tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa đã làm so sánh lực lượng giữa các nước thay đổi căn bản, khiến cho sự phân chia thế giới theo hệ thống Vécxai - Oasinhtơn không còn phù hợp.
+ Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, tạo điều kiện cho các thế lực phát xít lên cầm quyền ở Đức, Italia và Nhật Bản. Các thế lực phát xít là thủ phạm gây ra chiến tranh.
+ Chính sách thỏa hiệp, nhượng bộ của các nước phương Tây nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến.
Câu hỏi trang 23 Lịch sử 9 CTST: Hãy trình bày những diễn biến chủ yếu của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lời giải:
- Giai đoạn 1. Chiến tranh bùng nổ và lan rộng ra toàn thế giới (1939-1941)
+ Sau khi xâm chiếm Ba Lan, tháng 5-1940, quân Đức tổng tấn công ở mặt trận phía Tây với thế áp đảo, chiếm Hà Lan, Bi, Lúc-xăm-bua, Pháp, Đan Mạch và Na uy. Sau đó, Đức cố gắng đánh bại Anh nhưng bất thành. Ở Bắc Phi, phát xít Italia ồ ạt tấn công Ai Cập.
+ Ngày 22-6-1941, Đức tấn công Liên Xô. Trận chiến khốc liệt nhất đã diễn ra ở thành phố Lê-nin-grát và ngoại ô Mát-xcơ-va.
+ Trong lúc Đức đang thắng thế ở châu Âu, Nhật Bản mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng toàn bộ vùng Đông Nam Á. Ngày 7-12-1941, Nhật Bản bất ngờ cho máy bay tấn công hạm đội Mỹ tại Trân Châu Cảng ở Haoai. Mỹ từ bỏ chính sách biệt lập bắt đầu tham chiến. Chiến tranh lan rộng trên toàn bộ châu Âu, Bắc Phi và vùng châu Á-Thái Bình Dương.
- Giai đoạn 2. Quân Đồng minh phản công, chiến tranh kết thúc (1942 -1945)
+ Ngày 1-1-1942, tại Oa-sinh-tơn, 26 quốc gia (đứng đầu là Liên Xô, Mỹ, Anh) đã kí bàn Tuyên ngôn Liên hợp quốc chống chủ nghĩa phát xít. Khối Đồng minh chính thức ra đời.
+ Từ tháng 11-1942 đến tháng 2-1943, Liên Xô phản công và giành thắng lợi quan trọng trong trận Xta-lin-grát. Từ đây, Hồng quân Liên Xô và phe Đồng minh bắt đầu chuyển sang thế tấn công quân phát xít trên khắp các mặt trận.
+ Ở châu Âu:
▪ Tháng 9-1943, phát xít I-ta-li-a đầu hàng.
▪ Ngày 6-6-1944, quân Đồng minh mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu, đổ bộ vào Noóc-măng-đi, giải phóng nước Pháp.
▪ Ở mặt trận phía đông, cuối năm 1944, quân đội Liên Xô đẩy lùi quân Đức ra khỏi lãnh thổ, tiến quân giải phóng các nước Đông Âu, rồi tiến vào Đức.
▪ Từ ngày 16-4 đến ngày 9-5-1945, Hồng quân Liên Xô tiến hành chiến dịch Béc-lin, đánh bại và buộc Đức đầu hàng không điều kiện.
+ Ở mặt trận châu Á -Thái Bình Dương:
▪ Ngày 8-8-1945, Liên Xô tiến đánh hơn 1 triệu quân Nhật tại vùng Đông Bắc Trung Quốc.
▪ Ngày 6 và 9-8-1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki của Nhật.
▪ Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc
Câu hỏi trang 24 Lịch sử 9 CTST: Hãy phân tích những hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai đối với lịch sử nhân loại.
Lời giải:
Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, gây ra hậu quả nặng nề đối với toàn nhân loại. Khiến 76 quốc gia bị cuốn vào vòng khói lửa, hơn 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương. Hàng triệu nhà máy, xí nghiệp, làng mạc, thành phố,... bị phá hủy, thiệt hại về vật chất ước tính lên tới 4000 tỉ USD.
Câu hỏi trang 25 Lịch sử 9 CTST: Nguyên nhân nào đã làm nên thắng lợi của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai? Hãy nêu ý nghĩa của thắng lợi đó?
Lời giải:
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Tinh thần chiến đấu vì hòa bình của nhân dân toàn thế giới, Hồng quân Liên Xô và quân đội các nước Đồng Minh.
+ Sự phối hợp chặt chẽ giữa phe Đồng minh với các nước thuộc địa của phát xít.
- Ý nghĩa thắng lợi: Giúp nhân loại thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít.
+ Tạo ra những chuyển biến to lớn trong tình hình thế giới.
+ Thúc đẩy sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và châu Á, trong đó có Việt Nam.
Luyện tập 1 trang 26 Lịch sử 9 CTST: Hãy vẽ trục thời gian thể hiện những sự kiện chính của Chiến tranh thế giới thứ hai theo gợi ý sau:
Lời giải:
- Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan. Thực hiện cam kết bảo vệ nền độc lập của Ba Lan, ngày 3-9, Anh - Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
- Tháng 5 - 1940, quân Đức tổng tấn công ở mặt trận phía Tây với thế áp đảo, xâm chiếm Hà Lan, Bỉ, Lúc-xăm-bua, Pháp, Đan Mạch và Na Uy.
- Ngày 22-6-1941, Đức tấn công Liên Xô.
- Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công hạm đội Mỹ tại Trân Châu Cảng.
- Tháng 6 - 1942, tại đảo Mít-uây, Nhật thất bại trước hải quân Mỹ.
- Tháng 2-1943, Liên Xô phản công Đức, giành thắng lợi quan trọng trong trận Xta-lin-grat.
- Ngày 6-6-1944, Liên quân Anh - Mỹ đổ bộ lên bãi biển Nooc-măng-đi.
- Ngày 9-5-1945, Đức kí hiệp định đầu hàng không điều kiện, chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.
- Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
Luyện tập 2 trang 26 Lịch sử 9 CTST: Theo em, đâu là nguyên nhân chính dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai? (Hiệp ước Véc-xai? Hành động của Hit-le hay chính sách nhân nhượng của các nước châu Âu?) Giải thích câu trả lời của em
Lời giải:
Sự gia tăng, bành trướng của chủ nghĩa phát xít và các vấn đề về thuộc địa, kinh tế - chính trị, sắc tộc và tôn giáo.
Luyện tập 3 trang 26 Lịch sử 9 CTST: Theo em, có điểm gì tương đồng trong nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới ở thế kỉ XX?
Lời giải:
- Nguyên nhân sâu xa dẫn đến 2 cuộc chiến tranh thế giới ở thế kỉ XX đều là do: mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thị trường và thuộc địa.
Vận dụng trang 26 Lịch sử 9 CTST: Dựa vào kiến thức đã học kết hợp quan sát lược đồ 4.4, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 150 chữ) để miêu tả lại trận phản công ở Xta-lin-grát.
Lời giải:
(*) Tham khảo: chiến thắng Xtalingrat của Hồng quân Liên Xô
Mùa Hè năm 1942, tranh thủ thời cơ chưa phải đối phó với mặt trận phía tây, phát xít Đức mở cuộc tiến công lớn ở cánh phía nam mặt trận Xô - Đức hòng nhanh chóng đánh chiếm vùng dầu lửa Capcadơ và các dải đất phì nhiêu của sông Đông, Cuban và Hạ Vonga.
Trước tình hình đó, Tổng hành dinh quân đội Xô viết đã thành lập Phương diện quân Xtalingrat, đảm nhiệm phòng ngự trên mặt trận chính diện với chiều dài toàn tuyến 520km, nhằm chặn đứng cuộc tiến công của địch ở khu vực Xtalingrat, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công.
Ngày 17-7-1942, chiến dịch phòng ngự bắt đầu. Quân đội phát xít cố gắng tiến công thọc hậu từ hai bên sườn bao vây quân đội Liên Xô ở Calaxơ, rồi từ đó tiếp tục tiến công vào Xtalingrat. Các tập đoàn quân 62 và 64 Hồng quân đã phòng ngự rất ngoan cường và cùng các tập đoàn quân T4 và 4 liên tục phản kích, làm phá sản ý định ban đầu của địch.
Trong tháng 8/1942, Bộ chỉ huy quân sự Đức đã điều thêm lực lượng đến bổ sung, đưa quân số tham chiến tại mặt trận Xtalingrat lên đến 80 sư đoàn. Ngày 23-8, cùng với tiến công trên mặt đất, địch đã dùng trên 2.000 lần chiếc máy bay ném bom tàn phá thành phố. Quân đội Xô viết đã đưa vào chiến đấu lực lượng dự bị gồm Tập đoàn quân 24, 66 và sau đó là Tập đoàn quân CV1 cùng Phương diện quân Xtalingrat và Sông Đông liên tục phản đột kích, chặn đứng quân địch ở ngoại ô thành phố. Từ ngày 12-9, địch tiến công mãnh liệt từ các hướng tây - tây bắc và tây nam. Các trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trên từng đường phố, từng căn nhà. Địch tập trung mọi nỗ lực cao nhất để đánh chiếm thành phố nhưng không kết quả, lại bị tổn thất quá nhiều, kiệt sức, phải dừng lại.
Ngày 18-11-1942, chiến dịch phòng ngự kết thúc. Hồng quân đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 700.000 tên địch, phá huỷ 2.000 pháo, cối, 1.000 xe tăng và 1.400 máy bay, chặn đứng được cuộc tiến công của địch và chuyển sang phản công.
Ngày 19-11-1942, các Phương diện quân Tây Nam và Sông Đông, ngày 20-11, Phương diện quân Xtalingrat bắt đầu những đòn đột kích vào trận địa phòng ngự địch, và đã đẩy quân địch lùi sâu từ 15 - 20km. Ngày 23-11, bằng các cánh vu hồi của các quân đoàn tăng thuộc các phương diện quân Tây Nam và Xtalingrat, cụm 22 sư đoàn (330.000 quân) địch đã bị hợp vây. Giai đoạn 1 chiến dịch phản công hoàn thành, từ đây quyền chủ động chiến lược trên cánh Nam mặt trận Xô - Đức (gồm vùng Capcadơ và Xtalingrat) chuyển vào tay quân đội Xô viết.
Trong tháng 12/1942, những nỗ lực mới của địch nhằm giải vây cho cụm quân Xtalingrat đều vô hiệu.
Cuộc công kích tiêu diệt cụm địch bị hợp vây được tiến hành từ 10-1-1943, sau khi tối hậu thư của Hồng quân bị địch bác bỏ. Phương diện quân Sông Đông đảm đương nhiệm vụ này, và đến cuối tháng 1 đã chia cắt tập đoàn địch làm hai phần. Ngày 31-1, cụm phía nam do Thống chế Paolut trực tiếp chỉ huy đã đầu hàng. Ngày 2-2, cụm phía Bắc chấm dứt kháng cự. Chiến dịch phản công kết thúc thắng lợi với việc Phương diện quân Sông Đông đã bắt 91.000 địch đầu hàng và tiêu diệt 147.000 tên khác.