logo

Giải GDQP 12 Bài 5 Kết nối tri thức: Truyền thống và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của địa phương

icon_facebook

Mở đầu

Mở đầu trang 38 GDQP 12: Em hãy nêu ý nghĩa của các phong trào ở hình 5.1.

Giải GDQP 12 Bài 5 Kết nối tri thức: Truyền thống và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của địa phương

Trả lời:

- Ý nghĩa của phong trào “Ba sẵn sàng” đã kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam những nhui cầu cần thiết như: nhiều sinh viên lên đường nhập ngũ ra trận, lao động sản xuất và học tập để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và là hậu phương vững chắc cho miền Nam chống Mỹ cứu nước.

- Ý nghĩa của phong trào Ba đảm đang: Đây là phong trào do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động. Từ phong trào này, phong trào đã khuyến khích phụ nữ sản xuất và công tác để thay thế cho nam giới đi chiến đấu, chăm lo gia đình, con cái là hậu phương vững chắc cho chồng. Chính những điều này đã góp phần tạo nên thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Khám phá

I. Một số nét chính về truyền thống và nghệ thuật quân sự của lực lượng vũ trang địa phương

Câu hỏi trang 39 GDQP 12: Nơi sinh sống có những thành phần nào của lực lượng vũ trang địa phương nào? Lấy ví dụ cho các thành phần đó.

Trả lời:

- Nơi em sinh sống (Đà Nẵng) có những thành phần của lực lượng vũ trang địa phương là:

+ Bộ đội địa phương

+ Dân quân tự vệ

+ Dự bị động viên

+ Công an thành phố, huyện, xã.

- Ví dụ: công an thành phố Đà Nẵng, Ban chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng, Công an quận Sơn Trà, lực lượng dân quân tự vệ ở các xã phường,…

Câu hỏi trang 42 GDQP 12: Em hãy nêu một số truyền thống của lực lượng vũ trang địa phương.

Trả lời:

- Một số truyền thống của lực lượng vũ trang địa phương:

+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; phục tùng sự lãnh đạo, quản lí của cấp uỷ, chính quyền địa phương

+ Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, càng đánh càng mạnh

+ Kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, linh hoạt trong chiến đấu và lao động

+ Gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hi sinh bảo vệ tài sản của Nhà nước ở địa phương, tính mạng, tài sản của nhân dân

+ Đoàn kết, tận tình giúp đỡ nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương bạn

Câu hỏi trang 44 GDQP 12: Em hãy nêu một số nét chính về nghệ thuật quân sự của lực lượng vũ trang địa phương.

Trả lời:

- Nghệ thuật quân sự của lực lượng vũ trang địa phương:

+ Tiến hành chiến tranh nhân dân ở địa phương, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc

+ Quán triệt tư tưởng, chiến lược tiến công, bám trụ kiên cường; tích cực, chủ động đánh địch rộng khắp, mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi thứ vũ khí với nhiều quy mô

+ Tận dụng, cải tạo địa hình, tạo lập thế trận tại chỗ; phát huy sở trường, phối hợp lực lượng

+ Vận dụng linh hoạt nhiều hình thức chiến thuật, sáng tạo nhiều cách đánh

+ Phối hợp, hiệp đồng chiến đấu, phục vụ, bảo đảm chiến đấu chặt chẽ với bộ đội chủ lực trên địa bàn

II. Trách nhiệm trong xây dựng, bảo vệ, giữ gìn, phát huy truyền thống quê hương

Câu hỏi trang 45 GDQP 12: Em hãy tìm hiểu về truyền thống của lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố em sinh sống.

Trả lời:

Truyền thống của lực lượng vũ trang TP Thái Nguyên:

Trải qua 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng vũ trang (LLVT) TP. Thái Nguyên đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. 

Sau khi Hội đồng Chính phủ có quyết định về việc thành lập TP. Thái Nguyên (ngày 19/10/1962), thực hiện Quyết định của Bộ tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 20/02/1963, Thành đội Thái Nguyên (nay là Ban Chỉ huy quân sự TP. Thái Nguyên) chính thức được thành lập.
Ngay sau khi được thành lập, Ban CHQS thành phố đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương tập trung vừa xây dựng LLVT, vừa chiến đấu bảo vệ vững chắc thủ phủ của Khu tự trị Việt Bắc. Giai đoạn 1965-1972, TP. Thái Nguyên trở thành một trong những trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Tính từ ngày 24/6/1965 đến 30/12/1972, đế quốc Mỹ đã huy động 2.056 lần chiếc máy bay (trong đó có 98 lượt máy bay B52) đánh phá 269 trận, với 6.658 quả bom phá, trên 10 vạn quả bom bi trút xuống địa bàn thành phố.
Để đảm bảo lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, LLVT thành phố đã không ngừng được củng cố, xây dựng và phát triển. Tính đến ngày 30/12/1972, quân và dân thành phố đã phối hợp với các lực lượng phòng không trên địa bàn bắn rơi 22 máy bay Mỹ (trong đó có 2 chiếc B52) và chiếc thứ 1.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắt sống 9 phi công. Riêng trong chiến dịch 12 ngày đêm tháng 12/1972, ngoài nhiệm vụ chiến đấu đánh trả máy bay Mỹ, có ngày tại 6 kho hàng, quân và dân TP. Thái Nguyên đã vận chuyển, giải tỏa gần 20.000 tấn hàng hóa đến nơi an toàn. Ngoài ra, lực lượng dân quân tự vệ của thành phố còn san lấp 300 hố bom; đào phá hàng trăm quả bom các loại, góp phần bảo đảm giao thông vận tải thông suốt chi viện cho tiền tuyến.
Mặc dù chiến sự ác liệt, song nhân dân và LLVT thành phố luôn đoàn kết, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đồng thời dồn sức chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến với khẩu hiệu "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Hằng năm, chỉ tiêu đóng góp lương thực của thành phố đều vượt 9-14%, thực phẩm vượt từ 25%-31%. Liên tục từ năm 1965-1975, TP. Thái Nguyên đều hoàn thành vượt chỉ tiêu tuyển quân, dẫn đầu các địa phương trong tỉnh.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng vạn con em các dân tộc của thành phố đã chiến đấu trên các chiến trường, có 2.045 đồng chí đã anh dũng hy sinh; 1.884 đồng chí đã để lại một phần xương máu trên các chiến trường, nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Quân đội.
Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Thực hiện sự lãnh đạo của Thành ủy, Ban CHQS thành phố đã xây dựng được 1 đại đội dân quân gồm 70 cán bộ, chiến sĩ bổ sung cho tiểu đoàn 736 của tỉnh làm nhiệm vụ chiến đấu ở Cao Bằng. Đồng thời, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố, cơ quan quân sự thành phố đã tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng ở các công ty: Gang thép Thái Nguyên, Xây lắp luyện kim, Xây lắp cơ khí, tổ chức thành các tiểu đoàn tự vệ cơ động chiến đấu trên mặt trận Cao Bằng tháng 2/1972. Các đơn vị trên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần to lớn cùng quân và dân các tỉnh biên giới bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc.
Phát huy truyền thống, chiến công, thành tích trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bước vào giai đoạn mới, LLVT TP. Thái Nguyên không ngừng xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chiến lược "diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng. Trong đó, công tác quân sự địa phương luôn được Đảng bộ, chính quyền thành phố coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo. Thành phố xác định gắn việc xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc với quy hoạch đô thị, gắn phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội với nhiệm vụ củng cố quốc phòng -  an ninh, tập trung xây dựng LLVT địa phương vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Tiếp nối truyền thống vẻ vang, những năm qua, LLVT TP. Thái Nguyên đã và đang chủ động xây dựng hình ảnh đẹp của người “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn mới. Theo đó, LLVT thành phố tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về giảm nghèo, tham gia các phong trào "Xây dựng đời sống văn hoá", làm tốt công tác dân vận trong phong trào xây dựng nông thôn mới, "Đền ơn đáp nghĩa" ở địa phương.
Qua đó góp phần phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội địa bàn. LLVT thành phố cũng đã tham gia tích cực phòng, chống đại dịch COVID-19, huy động lực lượng 1.604 đồng chí với 12.832 ngày công, chỉ huy linh hoạt, hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ tại 3 khu cách ly, với trên 5.000 người vào khu cách ly, các chốt phòng dịch của thành phố và tại cơ sở.
Trải qua 6 thập kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, LLVT TP. Thái Nguyên đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn, chiến đấu kiên cường, lập nhiều chiến công xuất sắc. Quyết tâm giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang của nhân dân và LLVT thành phố anh hùng, để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, thời gian tới, LLVT TP. Thái Nguyên sẽ luôn đoàn kết, xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

Câu hỏi trang 46 GDQP 12: Học sinh cần làm gì để phát huy truyền thống của nhà trường và địa phương?

Trả lời:

- Tích cực học tập, tìm hiểu về lịch sử, truyền thống của lực lượng vũ trang địa phương; tự hào về những truyền thống tốt đẹp của nhà trường và quê hương.

- Đóng góp sức lực, trí tuệ nhỏ bé để xây dựng những truyền thống quê hương; thường xuyên vun đắp, tạo dựng nhiều truyền thống tốt đẹp khác ở nhà trường, địa phương trong quá trình học tập, sinh hoạt và công tác.

- Luôn biết ơn và trân trọng những cống hiến, hi sinh của thế hệ ông cha, tích cực tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tiếp lửa truyền thống, kỉ niệm các ngày lễ, ngày truyền thống... do nhà trường địa phương tổ chức.

- Thường xuyên tuyên truyền về lịch sử, truyền thống của nhà trường, địa phương với bạn bè trong nước và quốc tế; kịp thời phản ánh với nhà trường, chính quyền địa phương về những hành vi bôi nhọ, xuyên tạc về lịch sử, truyền thống của nhà trường và quê hương trên không gian mạng và các phương tiện thông tin đại chúng.

- Sẵn sàng tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự và phục vụ trong quân đội, công an lâu dài để cống hiến, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội.

Luyện tập

Luyện tập 1 trang 46 GDQP 12: Em hãy cho biết vì sao lực lượng vũ trang địa phương luôn kiên cường, dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu? Lấy ví dụ về tập thể, cá nhân kiên cường, dũng cảm, mưu trí trong chiến tranh giải phóng dân tộc.

Trả lời:

- Lực lượng vũ trang địa phương luôn kiên cường, dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu, vì:

+ Kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo là phẩm chất của lực lượng vũ trang nói chung và lực lượng vũ trang địa phương nói riêng. Đặc biệt, lực lượng vũ trang địa phương thường xuyên hoạt động phân tán nhỏ lẻ, nhiều lúc cài xen với địch, rơi vào tình huống khó khăn phức tạp, biến động khó lường càng đòi hỏi phải kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, linh hoạt.

+ Trong chiến đấu, lực lượng vũ trang địa phương luôn kiên cường, bất khuất, không sợ hi sinh, gian khổ để đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ quê hương, đất nước. Đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nhân dân dũng cảm, mưu trí, sáng tạo tiến công tiêu diệt địch đến cùng để bảo vệ quê hương; không chịu đầu hàng, khai báo khi bị địch bắt và tra tấn dã man, thậm chí, có người khi bị đưa ra xử bắn vẫn nêu cao khí phách hiên ngang, bất khuất, kiên trung; nhiều người mẹ, người chị không sợ hi sinh, để nuôi giấu cán bộ, làm giao liên, y tá,... ngay giữa làn bom đạn của địch.

+ Lực lượng vũ trang địa phương luôn mưu trí, sáng tạo, linh hoạt cả trong chiến đấu và lao động sản xuất. Nghiên cứu, tìm tòi và nghĩ ra nhiều cách đánh giặc hiệu quả phù hợp với thế mạnh của địa phương. Sáng chế nhiều loại vũ khí thô sơ, tự tạo bằng những phương pháp và phương tiện thủ công nhưng lại khiến quân địch khiếp sợ.

- Ví dụ: Mẹ Nguyễn Thị Suốt (Anh hùng ngành Giao thông vận tải) ngày đêm chèo đò đưa bộ đội vượt sông Nhật Lệ (Quảng Bình) trong sự đánh phá ác liệt của máy bay địch những năm 1964 - 1967

Luyện tập 2 trang 46 GDQP 12: Theo em, sự gắn bó máu thịt với nhân dân của lực lượng vũ trang địa phương thể hiện như thế nào trong chiến đấu?

Trả lời:

Sự gắn bó máu thịt với nhân dân của lực lượng vũ trang địa phương thể hiện trong chiến đấu như:

- Nhân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn của lực lượng vũ trang địa phương, giúp cho lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.

- Ngược lại, lực lượng vũ trang địa phương luôn sẵn sàng xả thân chiến đấu. hi sinh để bảo vệ tài sản của Nhà nước ở địa phương, tính mạng, tài sản của nhân dân và bảo vệ chính những người thân yêu của mình ở địa phương.

- Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đều là con em của nhân dân ở địa phương, được tổ chức ra để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân ở địa phương nên được dân yêu, dân mến, dân nuôi dưỡng, che chở.

+ Trong chiến tranh, nhân dân chắt chiu, gom góp cho đầy "hũ gạo kháng chiến", gửi áo ấm, chăn màn cho chiến sĩ, đào hầm nuôi giấu bộ đội....

+ Nhân dân chính là hậu phương vững chắc, là căn cứ địa an toàn nhất cho cán bộ, chiến sĩ cầm súng chiến đấu, đánh đuổi quân thù.

- Ở mọi giai đoạn lịch sử, lực lượng vũ trang địa phương luôn kề vai sát cánh, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết với nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức luôn một lòng, một dạ với nhân dân, tôn trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân và sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Luyện tập 3 trang 46 GDQP 12: Hãy nêu những hoạt động thể hiện việc phối hợp, hiệp đồng chiến đấu, phục vụ, bảo đảm chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương với bộ đội chủ lực.

Trả lời:

- Trong chiến đấu, phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang địa phương với bộ đội chủ lực là sự cần thiết, có tính tất yếu; hai lực lượng này luôn có mối quan hệ tác động qua lại, dựa vào nhau, hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau để phát huy sức mạnh và khả năng tác chiến của mỗi bên.

- Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động của lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động, giữa lực lượng của địa phương với bộ đội chủ lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng địch.

+ Lực lượng vũ trang địa phương thường xuyên cung cấp thông tin về địch, dẫn đường, tiếp tế lương thực, vận chuyển đạn dược, thương binh, bệnh binh,... và bảo đảm mọi mặt cho bộ đội chủ lực chiến đấu.

+ Khi tác chiến thì tiến hành hoạt động nghi binh, đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ, kìm giữ địch, chia cắt, căng kéo địch, buộc địch phải phân tán đối phó, bộc lộ sơ hở; tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực tập trung lực lượng đánh vào chỗ sơ hở, mỏng yếu của địch.

Luyện tập 4 trang 46 GDQP 12: Em hãy cho biết quan điểm của mình trong mỗi tình huống dưới đây:

a) Trong cuộc sống thời bình, An cho rằng không cần dành nhiều thời gian để học tập, tìm hiểu về những truyền thống trong chiến đấu mà tập trung vào nghiên cứu xã hội hiện tại để theo kịp sự phát triển trên thế giới.

b) Ở địa phương và nhà trường tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa nhằm tri ân những người đã có công với Tổ quốc, Bình luôn tìm lí do để không tham gia vì cho rằng những hoạt động đó chỉ làm mất thời gian, không mang lại ý nghĩa gì cho việc học tập và phát triển nghề nghiệp của mình trong tương lai.

Lời giải:

- Tình huống a. Không đồng tình với suy nghĩ của bạn An. Là người con sinh sống trên đất nước Việt Nam thì phải biết lịch sử, truyền thống quý báu của dân tộc. Dù sống trong thời bình thì vẫn phải tìm hiểu về những truyền thống trong chiến đấu thì mới là người có trách nhiệm trong việc xây dựng, bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống của quê hương.

- Tình huống b. Không đồng tình với hành động của bạn Bình. Chúng ta được sống trong hòa bình như hiện nay là nhờ công sức của các anh hùng liệt sĩ đã chiến đấu đem lại độc lập cho tổ quốc. Vì thế chúng ta phải biết ơn họ, gia đình họ thông qua các hoạt động đền ơn đáp nghĩa ở địa phương.

Vận dụng

Vận dụng trang 46 GDQP 12: Em hãy cùng các bạn thành lập nhóm để sưu tầm những truyền thống vẻ vang hoặc nghệ thuật quân sự độc đáo của lực lượng vũ trang địa phương nơi em sinh sống và chia sẻ với mọi người.

Trả lời:
Truyền thống vẻ vang của Lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ An

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là con cháu của các chiến sĩ “Tự vệ Đỏ”, “Xích vệ Đỏ” trong cao trào Cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), LLVT Nghệ An luôn vượt lên mọi hy sinh gian khổ, xứng đáng  với truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quê hương Xô Viết anh hùng. Hơn nửa thế kỷ qua, trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, chiến đấu hay xây dựng, ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, trên chiến trường trong nước cũng như chiến trường nước Bạn... LLVT tỉnh Nghệ An luôn có mặt ở vị trí hàng đầu và lập công xuất sắc.
Ngay từ những ngày đầu vừa giành được chính quyền trong thế “ngàn cân treo sợi tóc” LLVT tỉnh nhà được Đảng bộ, chính quyền cách mạng chăm lo, xây dựng. Các đại đội, trung đội, tiểu đội giải phóng quân, tự vệ chiến đấu, dân quân du kích từ tỉnh đến huyện, xã thực sự làm nòng cốt trấn áp bọn phản cách mạng bảo vệ chính quyền cách mạng. 
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT Nghệ An đã vượt lên mọi khó khăn gian khổ, xây dựng và bảo vệ vững chắc một căn cứ địa quan trọng, hậu phương chiến lược không những chỉ của Liên khu 4 mà còn của toàn quốc và cách mạng Lào anh em. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ tịch “hướng về Nam bộ”, ba chi đội Nam tiến của LLVT tỉnh và một Phân đội Công an Trinh sát của tỉnh đã có mặt chiến đấu trên chiến trường Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ. Theo sát chân của bộ đội chủ lực, hơn một triệu lượt dân công, chủ yếu là lực lượng du kích đã có mặt ở các chiến trường, tham gia các chiến dịch lớn ở Bình Trị Thiên, Hoà Bình, Tây Bắc, Hà Nam Ninh, Thượng Lào, Trung Lào và Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ...
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tỉnh Nghệ An trở thành tiền tuyến của miền Bắc, hậu phương trực tiếp của miền Nam và chiến trường Lào. Trong cuộc chiến tranh Nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân và Hải quân của đế quốc Mỹ, LLVT tỉnh đã phối hợp với các đơn vị của Bộ và Quân khu chiến đấu trên địa bàn bắn rơi 553 máy bay (đứng thứ hai miền Bắc), bắt sồng nhiều giặc lái; bắn chìm, bắn cháy 36 tàu chiến, tàu biệt kích Mỹ, nguỵ (đứng thứ tư trên toàn miền Bắc); tiêu diệt và bắt sống 28 toán biệt kích, gián điệp...
Thực hiện nhiệm vụ quốc tế vẻ vang, từ 1959-1973, LLVT Nghệ An đã tham gia chiến đấu 250 trận trên chiến trường Lào, tiêu diệt và làm bị thương trên 2.500 tên địch thu giữ nhiều vũ khí, trang bị quân sự, góp phần cùng bạn Lào giải thoát hàng vạn dân khỏi ách kìm kẹp của địch và mở rộng vùng giải phóng. Trong chiến dịch mùa khô 1985-1986, LLVT tỉnh cùng với các đơn vị của Quân khu 4 đã phối hợp với Bạn đập tan sào huyệt của lực lượng phỉ Vàng Pao ở Phu Bia, Loong Chẹng, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, giải phóng trên 4 nghìn dân.
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy truyền thống cách mạng của dân tộc, LLVT tỉnh Nghệ An lại tiếp tục tham gia chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Trên địa bàn tỉnh, các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân tự vệ là lực lượng chủ yếu đóng góp hàng triệu ngày công xây dựng các công trình thủy lợi lớn nhỏ như Vách Bắc, Vực Mấu, Cống Hiệp Hòa... và nhiều công trình kinh tế khác của tỉnh, huyện. LLVT Nghệ An trở thành đội quân chủ lực đi đầu, lao vào nơi nguy hiểm khó khăn nhất để cứu giúp, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân và Nhà nước trong thiên tai, bão lụt, cháy rừng.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh luôn tham mưu kịp thời, đầy đủ cho cấp ủy, chính quyền cùng Nhân dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng cơ sở xã, phường, cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Chú trọng xây dựng phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, ổn định kinh tế xã hội để nâng cao tiềm lực và khả năng quốc phòng địa phương, chăm lo và bảo đảm tốt nhất chính sách hậu phương Quân đội.
Trải qua 75 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp nhau lập nên nhiều chiến công, làm rạng rỡ thêm lịch sử của quê hương Xô Viết anh hùng và xây đắp nên những truyền thống vẻ vang: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, với Nhân dân, sẵn sàng chiến đấu vì nước vì dân, bền bỉ chịu đựng gian khổ, quyết đánh và biết đánh thắng mọi kẻ thù; luôn gắn bó máu thịt với Nhân dân, thực sự làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương; cùng cả nước, vì cả nước thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng vẻ vang; đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung nhất là với Nhân dân và Quân đội Lào anh em. 
LLVT Nghệ An đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (LLVT Nghệ Tĩnh), Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quân công hạng Ba và hàng nghìn huân, huy chương các loại. Đặc biệt, năm 1979, LLVT Nghệ An vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Đơn vị Anh hùng LLVT Nhân dân”. Đến nay, toàn LLVT tỉnh có 167 tập thể, 81 cán bộ, chiến sĩ quê hương Nghệ An được tuyên dương Anh hùng LLVT Nhân dân. 

icon-date
Xuất bản : 20/08/2024 - Cập nhật : 08/10/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads