Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Câu nói nổi tiếng của Nguyễn Trung Trực là gì?” và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Lịch sử 8.
Câu nói nổi tiếng của Nguyễn Trung Trực là “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Trong lịch sử chống ngoại xâm vào nửa sau thế kỷ XIX, Nguyễn Trung Trực là một trong những người yêu nước tiêu biểu, và đặc biệt. Ông tham gia chống Pháp từ những năm đầu tiên Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam.
Nguyễn Trung Trực (chữ Hán: 阮忠直; 1839 - 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào nửa cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ, Việt Nam. Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn. Từ năm Kỷ Mùi (1859) đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch) và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên hiệu là Trung Trực.
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên (nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau).
Ông là con trưởng trong một gia đình có tám người con. Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.
Thời ᴄòn trẻ, ông giỏi ᴄả ᴠăn, ᴠõ. Nhưng nổi bật nhất là ᴠõ nghệ, năm 16 tuổi đã tỉ thí ᴠõ đài ở địa phương. Tháng 2/1859, thựᴄ dân Pháp đánh thành Gia Ðịnh, ông lập đội nghĩa dũng đượᴄ nhiều người hưởng ứng, kéo lên ứng ᴄứu. Năm 1861, ông tham gia nghĩa quân ᴄủa Bình Tâу đại nguуên ѕoái Trương Ðịnh, đượᴄ giao ᴄhứᴄ Quản đạo. Ðạo quân ᴄủa ông hoạt động mạnh ở ᴠùng Tân An (Long An).
Hai chiến công lừng lẫy của ông: đốt cháy tàu L’ Espérance - tàu Hy vọng của Pháp trên vàm sông Nhựt Tảo ngày 10/12/1861 và trận đánh diệt đồn Rạch Giá ngày 16/6/1868.
a. Đốt cháy tàu L’ Espérance - tàu Hy vọng của Pháp trên vàm sông Nhựt Tảo ngày 10/12/1861
- Trận đầu tiên diễn ra vào năm 1861 trên vàm Nhựt Tảo (huyện Tân Trụ, tỉnh Long An ngày nay). Vào khoảng sáng ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng quyền sung Phó Quản binh đạo Huỳnh Khắc Nhượng, Võ Văn Quang, quản toán Nguyễn Học và hương thôn Hồ Quang Chiêu (Đại Nam thực lục chép là lương thân Hồ Quang) tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu chiến này. Chiến công này làm dấy lên phong trào chống Tây ngay sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ vào ngày 25/2/1861.
- Tiếng tăm của Nguyễn Trung Trực vang dội, làm binh lính Pháp phải dè dặt. Nhậm chức Lãnh binh, Nguyễn Trung Trực đưa quân về hoạt động ở các tỉnh miền Tây. Cụ đưa quân về trấn giữ Hà Tiên nhưng chậm một bước so với quân Pháp. Thay vì phải trở ra Bình Thuận theo lệnh triều đình, Nguyễn Trung Trực đưa quân xuống khu vực sông Cái Lớn (Kiên Giang) để chờ thời cơ. Uy tín của cụ đã lan rộng nên dễ dàng tập hợp được người yêu nước trong cộng đồng Kinh - Hoa - Khmer ở địa phương.
- Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có tám người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní)
- Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã dẫn quân tiếp viện đến đốt cháy nhiều nhà cửa trong làng Nhật Tảo để trả thù.
b. Trận đánh diệt đồn Rạch Giá ngày 16/6/1868
- Sau đó, ông tiếp tục chiến đấu qua lại trên địa bàn Gia Định, Biên Hòa. Sau khi ba tỉnh miền đông Nam Bộ mất (hòa ước Nhâm Tuất 1862) ông được phong làm Lãnh binh. Năm 1861 ông lại được triều đình phong chức Hà Tiên thành thủ úy để trấn giữ đất Hà Tiên.
- Không theo lệnh triều đình rút quân ra Bình Thuận, Nguyễn Trung Trực đem quân về lập mật khu ở Sân chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, lập thêm căn cứ kháng Pháp.
- Ở Kiên Giang, sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung xong lực lượng (trong số đó có cả hương chức, nhân dân Việt - Hoa - Khmer); vào 4 giờ sáng ngày 16/ 6/1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang), do Trung úy Sauterne chỉ huy.
- Giặc Pháp phản công, ông rút ra đảo Phú Quốc lập căn cứ nhằm chống giặc lâu dài.
- Kết thúc trận, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt được 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng cùng nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền.
- Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin Chủ tỉnh Rạch Giá cùng vài sĩ quan khác bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là một sự kiện bi thảm (un événement tragique).
- Nhưng quân Pháp quá mạnh, cuộc kháng chiến của Nguyễn Trung Trực sớm kết thúc. Không cam tâm để đồng đội bị đói khát, dân thường bị giết hại vô tội, cụ Nguyễn phải đầu hàng tại Phú Quốc.
- Sau khi đưa Nguyễn Trung Trực về Gia định tìm cách dụ dỗ không thành. Địch áp giải cụ về Kiên Giang.
- Sau đó, cụ bị xử chém đầu tại chợ Rạch Giá. Người dân nghe hung tin, nhất là người dân Tà Niên, đã tổ chức dệt chiếu trải cho cụ đứng khi bị xử tử.
- Trước khi chết, cụ Nguyễn mở mắt nhìn bầu trời quê hương, nhìn những người cụ từng thọ ơn cưu mang cùng đồng đội trong thời gian qua. Cụ Nguyễn Trung Trực dõng dạt hô lớn: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.