Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận Tự tình 2 dành cho học sinh giỏi giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ văn lớp 12
Hồ Xuân Hương một nữ thi sĩ tài ba với phong cách sáng tác thơ nôm tả cảnh ngụ tình sâu sắc cùng ý tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự lòng mình theo giới nghiên cứu hiện còn khoảng 40 bài thơ nôm tương truyền là của HXH nữ sĩ còn có tập thơ Lưu hương kí, HXH là một hiện tựơng khá độc đáo trong lịch sử văn học việt nam đó là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình. Nổi bật trong sáng tác của hồ xuân hương là tiếng nói thưong cảm đối với phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong trái tim họ. và một lần nữa ta bắt gặp điều đó qua những câu thơ rất đỗi chân thành trong bài thơ tự tình 2 trong chùm thơ tự tình dc viết nên từ những cung bậc tình cảm dừơng như đang làm rối bời tâm trạng nhà thơ.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
…
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tình là gì ai biết không? tình là vầng dương tình là ngàn sao hay tình chỉ là vầng trăng khuyết, câu hát vang lên bằng một câu hỏi tu từ hỏi đời rằng trên thế gian còn gì hạnh phúc bằng tình yêu hay có gì làm lòng ngừơi đau khổ bằng thất bại trong tình cảm, nỗi đau khổ đó không chỉ làm bão giông trong bao trái tim ngừoi đời và trong đó có trái tim hồ xuân hương, nỗi cô đơn đã dằn vặt làm thao thức tác giả trong cái yên ắng và lạnh lùng của đêm khuya.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nứơc non
Trong cái tĩnh mịch u buồn của đêm giá lạnh thoáng nghe tiếng trống canh văng vẳng từ môt chòi canh xa vọng đến báo hiệu đã nữa đêm, tiếng trống mỗi lúc một dồn dập hơn xa đến gần càng lúc như nhanh hơn trôi theo từng khoảnh khắc của thời gian và rút ngắn tuổi đời của một ng phụ nữ “hồng nhan” nhưng “trơ” đi trứơc cuộc đời trứoc cảnh vật tựa như gỗ đá đã bị mất hết cãm giác vì bao nỗi phiền muộn đợi chờ một thứ hạnh phúc mong manh, giọng thơ trĩu xuống tăng thêm nỗi chán chừơng và cái cô đơn đang bủa quanh tác giả.Cách sử dụng đão ngữ nhấn mạnh thêm sự trơ trọi bẽ bàng và tủi hổ. Trứơc cuộc đời trứơc duyên phận hẩm hiu ng phụ nữ ấy chua xót cho chính mình, thân phận lẻ loi mong manh giữa bao vùi dập của cái xã hội đầy bất công thị phi ngang trái. Thân phận hồng nhan bây giờ phải trải qua những đêm dài cay đắng cho tấm lòng thủy chung vì cuộc tình dang dở.Tiếng thở dài ngao ngán và ý nguyện muốn thoát khỏi nỗi sầu muộn dấy lên trong lòng nhưng cuối cùng cũng rơi vào bế tắc, dừong như nghịch cảnh khôg buông tha cho ng phụ nữ ấy, mựợn rựou quên đi nhưng lại càng nhớ.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Chén rựơu cầm hững hờ trên tay mặc cho hương nồng của rựơu phả vào mặt xộc vào mũi, tác giả mong rượu có thể giải tỏa hộ nỗi lòng của mình, mong cơn say mau tìm đến để đưa ng đến một nơi yên bình dù trong thời gian ngắn ngủi cũng đỡ hơn khi phải một mình đối diện nỗi cô đơn đang giày xéo tâm can.Nhưng say rồi lại tỉnh cứ chập chờn chập chờn mơ hồ trong cái vòng lẩn quẩn.Thời gian thì cứ trôi tác giả lúc thì tỉnh để nhận ra cái éo le của cuộc đời lúc thì chìm vào cơn say quên đi bao tuyệt vọng, mong mỏi phút giây nào đếy có thể gạt dc tất cả qua một bên để sống với những khao khát của chính mình nhưng mong ứơc bé nhỏ ấy cũng bị cuốn phăng đi vô tình.Nỗi buồn tủi bắt đầu xâm chiếm, bao đêm dài thao thức đợi chờ nhưng vô vọng, chờ nhiều đợi nhiều mà hạnh phúc chẵng bao nhiêu trong khi cái xuân thì ngày càng rời xa tác giả.
Vầng trăng xuất hiện để làm chứng nhân cho bao cuộc tình mà sao khi tác giả thấy trăng thì lại không dc tròn đầy mà là hình ảnh đối lập là khuyết, phải chăng cuộc tình này cũng thế chẳng bao giờ có một cái kết trọn vẹn.Đến bao giờ thì trăng mới tròn đến khi nào thì hạnh phúc mới trong tầm tay và bao lâu nữa thì nỗi cô đơn này thôi xuất hiện làm xót lòng.Tác giả khao khát và mong chờ, nỗi niềm đó nhân lên theo ngày tháng, nhưng càng hi vọng thì càng đau khổ, bi kịch có bao giờ dc kết thúc cho những ng phụ nữ quá lứa lỡ thì cùng tình duyên ngang trái trong cái xhpk ngày xưa.Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra không gian khắp bốn bề, khẽ đưa mắt nhìn ra khoảng trống trứoc mặt những hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt và như hòa vào tâm trạng nhuốm nỗi buồn phiền của tác giả.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Câu thơ tả cảnh với cấu trúc tương phản hình ảnh những đám “rêu” bé nhỏ yếu ớt với sức mạnh “xiên ngang” cả lớp đất dày vưon lên với sức sống mãnh liệt hay “đá mấy hòn” nhưng lại có khả năng đâm toạc chân mây trứoc mắt.Thái độ phản ứng khá mạnh mẽ trứoc duyên tình lận đận thể hiện qua cả gịong thơ ngang ngạnh phản kháng và ấm ức.Thiên nhiên trong mắt nhà thơ tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt.Ta thấy rõ dc tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu thơ này, dừơng như có một điểm giống nhau giữa tâm hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và đá bé nhỏ là thế nhưng chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và nhà thơ cũng vậy.
Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hy vọng, bi kịch dẫu đắng cay nhưng bằng cả nghị lực tác giả vẫn cố gắng gựơng mong chờ vựơt qua để đến bến bờ bình yên cho mình.2 câu thơ hay ẩn dụ dc khát vọng rất lớn không chỉ của riêng hxh mà là tiếng lòng chung của bao số phận hồng nhan hẩm hiu về một cuộc đời hạnh phúc hơn.Dâng tràn trong họ là tất cả hy vọng mong chờ bằng cả niềm tin dù bao nghịch cảnh.Nhưng đáng buồn thay vòng xoay cuộc đời một lần nữa làm ng rơi vào bế tắc.Cuộc đời nhà thơ là những thắng ngày buồn tủi không chỉ một mà đến 2 lần ng đều là vợ lẽ và âu cũng vì vậy mà bao phẫn uất kết tụ đến hồi bộc phát khi thực tại vẫn là bao chua xót não nề.Khao khát dc yêu thương dc sống hạnh phúc như nhữgn ng phụ nữ bình thừơng nhưng càng vô vọng, đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn còn trằn trọc thao thức ưu tư, nỗi đau bị dồn tụ khi tác giả nhìn lại chính mình thì cũng là lúc nỗi cô đơn đâng đầy hơn bao giờ hết trong tâm trạng chán chừờng và mệt mỏi thậm chí là thất vọng với sự thực trứơc mắt.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán” dc rõ nét hơn.Mùa xuân có đi rồi cũng đến ngaỳ sẽ quay về với thiên nhiên nhưng còn tình duyên thì mới bao giờ trở lại với con tim chung tình đang chịu nỗi đau.Tuổi xuân ng phụ nữ trôi nhanh nhưng cũng không bằng cuộc tình dang dở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ quạnh hiu trong nỗi cô đơn đang ngấm buốt tê lòng.Tình duyên lỡ làng tan vỡ như mảnh vụn chỉ dành nhà thơ dc một chút nhưng lại phải “san sẻ” để còn trong nhà thơ là “tí con con”.Buộc lòng cam chịu cảnh ngộ đơn chiếc đang ngày đêm trải qua sự đợi chờ mỏi mòn.Nỗi đau như thế chưa đủ hay sao mà còn tình cảm nhận được chẳng những quá ít mà còn quá vô tình, quá hờ hững. Câu thơ tả thực nỗi chua chát ngấm từ trong lòng. Nỗi trống trải cô đơn làm tác giả chán nản nới những mong chờ mà đáp lại chỉ là sự lành lùng tàn nhẫn. Mổi từ như một giọt nứoc mắt rưng rưng chỉ chực trào ra theo những tủi hờn trách móc.Có mấy ai hiểu dc những gì đang hành hạ tâm hồn mỏng manh của ng, thấu chăng nơi đây đang có bóng hình chờ và đợi.Đau lắm nhưng cũng phải tự nén lòng và nuốt nghẹn đắng vào trong.Cuộc đời thì cứ đùa cợt trêu đùa với những người làm vợ lẽ, phải chịu bao phân biệt và bất công có ai thấu hiểu ?
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm lòng làm mứơn mứơn không công
Cả bài thơ là muôn vàn sắc thái tình cảm của nhà thơ có buồn có hờn có giận có chua chát có lúc phản kháng dữ dội nhưng rồi chán chường vì thất vọng. Tiếng thơ táo bạo chân thành thễ hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của bao hồng nhan torng xhpk bấy giờ, qua đó đã dẫn dắt cho ng đọc đi vào thế giới tâm hồn đa dạng của họ và thấy dc cũng như có cơ hội cảm thông với bao nỗi buồn mà họ phải gánh chịu .Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian dc sử dụng khéo léo giàu sức biểu cảm tinh tế. Tài thơ nôm cua hxh còn thể hiện qua việc viết thơ đường luật bằng tiếng việt thật tài tình quả không hổ danh là bà chúa thơ nôm.
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi”
Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm, một hiện tượng đặc biệt của thơ ca trung đại Việt Nam. Nữ thi sĩ có số phận éo le, ngang trái nên hồn thơ của bà là tiếng nói đại diện cho những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến với một khát vọng tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ_ một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì. Trong đó Tự tình bài II được coi là bài thơ hay nhất, giàu cảm xúc và lắng đọng nhất.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
...Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng cái đặc sắc không phải viết bằng chữ Hán mà được viết bằng ngôn ngữ dân tộc chữ Nôm. Phải đến thời kì Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du thì phong trào làm thơ Nôm mới đạt đến đỉnh cao thực sự. Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đa tài, đa tình mà số phận truân chuyên. Bà là con vợ lẽ, lại đã từng muộn màng đường tình duyên, từng mang thân đi làm lẽ và sống trong cảnh góa bụa. Chính hoàn cảnh ấy là cảm hứng cho bà sáng tác chùm thơ Tự tình. Bài thơ Tự tình II là hình ảnh người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trong đêm khuya thanh vắng than ngẫm, đau xót cho thân phận của mình.
Phân tích bài thơ theo bố cục đề thực luận kết của thể thơ Đường luật. Với hai câu thơ đầu là không gian, thời gian cùng với tâm trạng tê tái của người phụ nữ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Thời gian ở đây là lúc đêm khuya khi mà con người chìm sâu vào trong giấc ngủ để nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt mỏi, thì nhân vật trữ tình ở đây lại thao thức, trằn trọc không ngủ được. Không gian là khoảng không bao la, rộng lớn yên tĩnh, vắng lặng nghe thấy “văng vẳng trống canh dồn” báo hiệu thời gian trôi qua rất nhanh. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh lấy cái âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh để nói cái không gian tĩnh lặng về đêm. Lấy cái ngoại cảnh để nói tâm cảnh. Là cảnh vật tác động đến con người hay là vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đêm khuya thanh vắng là lúc con người ta trở nên bé nhỏ và lạc lõng vô cùng khi giường đơn gối chiếc đối diện với chính mình mà cảm thấy “trơ”. “Trơ”ở đây là trơ trọi, là cô độc chỉ có một mình, được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh nỗi đau, sự bất hạnh của một người phụ nữ có “hồng nhan”. Ấy là chỉ cái vẻ đẹp nhan sắc bên ngoài của người con gái “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” nhưng cũng là để nói đến cái phẩm hạnh “Tấm lòng son” bên trong. Chữ “cái” nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả “cái hồng nhan” cho thấy sự tủi hổ, bẽ bàng khi nhan sắc, đức hạnh của người phụ nữ bị coi rẻ, bị mỉa mai. “Nước non” chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội bên ngoài. “Trơ” phải chăng cũng là sự thách thức “nước non” của một con người có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ trơ trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Vì lắm đau buồn mà nét mặt con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người như hóa đá không còn cảm giác. Người đọc tưởng như nghe được cả tiếng thở dài, ngao ngán của người phụ nữ trước duyên phận bẽ bàng.
Hai câu thực là lựa chọn của tác giả khi sầu tìm đến rượu, bà muốn mượn chút hương nồng để quên đi nỗi buồn nhưng càng uống lại càng tỉnh lại càng đau, nỗi buồn không nguôi trong vòng xoáy luẩn quẩn.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Ngẩng đầu lên ngắm trăng mà trăng đã xế khi chưa lúc nào tròn. Vầng trăng ở đây vừa là hình ảnh thiên nhiên vừa là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân của thi sĩ sắp qua đi mà tình yêu vẫn chưa bao giờ được trọn vẹn, được ắp đầy. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh tài hoa mà phải chịu cảnh dang dở. Nguyên do ấy là vì đâu? Phải chăng như Nguyễn Du đã từng nói về “Tài mệnh tương đố”, vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Nếu như bốn câu thơ đầu là hoàn cảnh và tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của tác giả thì bốn câu thơ sau là ý thức phản kháng mạnh mẽ, là tâm thế muốn bứt phá, muốn thay đổi số phận của mình nhưng càng cố gắng, càng hy vọng, càng mong muốn bao nhiêu thì lại càng thất vọng, xót xa bấy nhiêu khi “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.
Hai câu luận là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình, mượn ngoại cảnh để nói cái “chí”, cái “tình”bên trong của mình.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Rêu và đá là hai sự vật nhỏ bé nhưng không hề yếu mềm mà mang một sức sống mãnh liệt có thể “xiên ngang mặt đất” và “đâm toạc chân mây”, kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng các động từ mạnh “xiên”, “đâm” cộng với bổ ngữ “ngang”, “toạc” vừa nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên nhưng cũng là để nhấn mạnh tâm trạng của con người phẫn uất, phản kháng không chịu chấp nhận số phận. Bà căm ghét cái kiếp làm lẽ mà thốt lên rằng: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Phản ứng của bà tuy mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Hồ Xuân Hương sống vào khoảng thời gian cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì mà chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ” với chế độ đa thê nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới, đòi quyền bình đẳng, muốn được sống, được yêu thương và có được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy không hề dễ dàng bởi chính bản thân bà vẫn đang phải chịu số phận éo le, ngang trái.
Số phận của thi sĩ cũng chính là số phận của biết bao những người phụ nữ trong xã hội xưa. Chính điều đó đã khiến cho Nguyễn Du phải khóc than cho thân phận của nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều và những người phụ nữ như Hồ Xuân Hương:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Hai câu kết nói về tận cùng của sự đau khổ, chán chường, buồn tủi tác giả thương cho thân cho phận của chính mình:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
“Ngán”ở đây là tâm trạng, cảm xúc ngao ngán, chán nản cuộc đời ngang trái. Xuân chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của muôn hoa đua nở khoe sắc khoe hương, mùa của sum họp nhưng còn có hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân thì của người phụ nữ. Từ “Lại” cho thấy sự tuần hoàn lặp đi lặp lại. Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời qua đi rồi trở lại, nó đến mang đi mùa xuân của con người mùa xuân ấy thì chỉ một đi để rồi “Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha” (Truyện Kiều).
Đáng lẽ mùa xuân tươi đẹp căng tràn nhựa sống trở về con người phải cảm thấy hớn hở, vui mừng thì thi sĩ lại càng cảm thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ xuân đến là một lần tuổi đời lại thêm, tuổi trẻ dần qua đi mà bản thân mình vẫn đơn độc, thiếu thốn yêu thương khi “Mảnh tình san sẻ tí con con!” mảnh tình đã nhỏ bé lại còn san sẻ “Tí con con” tạo nên cảm xúc xót thương, đau đớn, ngậm ngùi và ấm ức. Nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh vào những điều nhỏ bé càng làm cho nghịch cảnh càng trở nên éo le hơn.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người phụ nữ lận đường tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn thi sĩ với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp nghệ thuật đảo ngữ và các từ láy “văng vẳng”, “con con” với nghệ thuật tăng tiến càng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thẫm đượm cái ý cái tình của người phụ nữ có nhiều nét độc đáo, mới lạ trong nền thơ ca văn học dân tộc.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng vừa buồn tủi, xót xa lại vừa uất ức cho thân kiếp làm lẽ của người phụ nữ đồng thời cũng là bi kịch và khát vọng hạnh phúc cá nhân của Hồ Xuân Hương. Bài thơ truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc tới độc giả dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên muốn thay đổi số phận, thay đổi nghịch cảnh mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn với hạnh phúc lứa đôi và tình duyên trọn vẹn
Có những tác phẩm luôn được gắn liền với tên tuổi của người làm ra nó, chẳng hạn như nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta nhớ ngay đến chìm thơ thu nổi tiếng của ông, nhắc đến Nguyễn Du người ta không thể nào không nói đến Truyện Kiều. Và Hồ Xuân Hương cũng thế, nhắc đến nữ thi sĩ này người ta nhớ nhất là chùm thơ Tự tình. Đặc biệt trong đó có bài thơ Tự tình II được nhiều người yêu mến và thích đọc nó. Phải chăng do nó nói lên chính tấm lòng của người phụ nữ kia nên được sự ưu ái của bạn đọc như thế ?
Bài thơ Tự tình II được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, viết theo ngôn ngữ môn thuần việt chính vì thế cấu trúc bài thơ cũng được chia thành bốn phần đề, thực, luận, kết. Mỗi phần gồm hai câu nói lên những tâm tư tình cảm của nhà thơ hay cũng chính là sự đồng cảm với số phận người phụ nữ bấy giờ. Trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy đã có lần Xuân Hương mạnh bạo nói lên câu: “Không chồng có chửa mới ngoan – Có chồng mà chửa thế gian có đầy”. Câu nói ấy không phải lăng loàn mà nó thể hiện sự bênh vực của Xuân Hương với những phụ nữ bị cưỡng hiếp nhục nhã khi bị người ta chê cười chửa hoang. Vì thế bài thơ Tự tình này cũng như đang nói lên tâm trạng của người phụ nữ thời xưa.
Hai câu thơ đầu mở ra một không gian của đêm buông tĩnh mịch, và trước cái đêm tĩnh lặng ấy cái tình của người phụ nữ mới bắt đầu chiếm lấy không gian ấy để mà thổn thức một mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Thời gian đêm khuya thường là lúc mọi cảnh vật chìm vào bóng tối và giấc ngủ thì người phụ nữ kia lại không thể ngủ được. Và chính không gian ấy đã góp phần làm cho tâm trạng tình cảm của người phụ nữ được bộc lộ ra rõ nét hơn. Hai chữ “văng vẳng” thể hiện tiếng động nơi xa xa vọng lại, đó là tiếng trống cầm canh, tiếng trống ấy không làm cho không gian nơi đây thêm phần huyên náo mà nó càng nhấn mạnh sự tịch mịch của đêm tối mà thôi. Tiếng trống cầm canh thúc giục buổi sáng mai thức dậy còn người phụ nữ của chúng ta thì vẫn còn chưa ngủ được. Có lẽ nàng thao thức với những tâm tư chất chứa trong lòng mà không thể nói với ai, chỉ là những đêm khuya nàng nhớ lại chúng nên không thể nào nhắm mắt nổi. Động từ “trơ” thật hay khi nói lên trạng thái của hồng nhan kia. Biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp trong câu như nhấn mạnh trạng thái ấy. Trơ có nghĩa là trơ trẽn hay trơ lì, dù hiểu thế nào đi nữa thì đó cũng là trạng thái cô đơn của nhà thơ khi đêm đến. Hồng nhan trơ mình với nước non, người phụ nữ lẻ loi cô đơn khi chịu cảnh làm vợ lẽ. Chẳng thế mà Xuân Hương từng có câu thơ về phận làm lẽ:
“Chém cha cái cảnh lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Sang hai câu thực, nhà thơ tiếp tục thể hiện những suy tư chồng chất của mình. Làm sao có ai hiểu được tâm trạng ấy. Liệu rằng chúng ta có thể thấy được một cảnh tươi đẹp hơn nhưng than ôi không hề có, lại những câu thơ buồn được cất lên:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong sự cô đơn chua cay nghiệt ngã của thân phận làm vợ lẽ nhà thơ đã tìm đến rượu. Người ta tìm đến rượu khi vui để chúc tụng để cho hơi men làm cho nó thêm phần vui vẻ hơn, đương nhiên khi buồn người ta cũng tìm đến rượu để giải sầu. Từ xưa đến nay vẫn thế, Hồ Xuân Hương cũng vậy, bà quyết định tìm đến rượu để giải sầu. Thế nhưng chính hơi men nồng ấm ấy lại không thể làm nguôi đi sự cô đơn, buồn bã của nhà thơ. Càng uống lại càng tỉnh, say nhưng rồi lại tỉnh, như vậy nỗi lòng, nỗi sầu đau của nhà thơ lớn đến mức rượu kia cũng không thể có tác dụng cho bà quên đi. Hình ảnh vầng trăng tượng trưng cho nhan sắc của người thiếu nữ ấy, đó là một vẻ đẹp lung linh huyền ảo, đằm thắm mà dịu dàng. Thế nhưng vầng trăng kia lại xế bóng khuyết chưa tròn phải chăng đó là sự tương đồng với nhan sắc của nhà thơ. Xuân Hương nghĩ nhan sắc mình ngày càng một tàn đi giống như vầng trăng kia cũng xế bóng thế mà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa thật sự. Buồn lại càng thêm buồn.
Tiếp đến hai câu luận, nhà thơ thể hiện nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp một lần nữa lại được nhà thơ sử dụng một cách triệt để và hiệu quả. Nào là “xiên ngang” rồi lại “đâm toạc” đó là những động từ mạnh mẽ thể hiện sức sống của những cây rêu, hòn đá kia. Đó là khả năng sinh tồn của những sinh vật nhỏ bé, dường như trong không gian u mịch và thời gian đêm khuya ấy nhà thơ đang ngắm nghía phát hiện những sự vật hiện tượng trong bóng đêm đó. Tuy nhiên chẳng có lẽ nhà thơ chỉ ngắm nhìn nó thôi sao, tác giả còn gửi thân phận của mình vào từng cảnh vật. Đám rêu kia hay chính là thân liễu đào tơ yếu ớt của phái nữ, hòn đá kia như thể hiện sự nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội lạc hậu lỗi thời. Những động từ mạnh kia giống như sự phá phách của Xuân Hương nó mãnh liệt như khát vọng đi tìm hạnh phúc vậy.
Hai câu thơ cuối bài nhà thơ nêu lên quy luật của tự nhiên vĩnh hằng cái vô hạn đối lập cái hữu hạn trong chính thiên nhiên và con người:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nếu Xuân Diệu có câu thơ “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” thì Xuân Hương cũng có hai câu thơ trên nói về sự việc này, quy luật này. Động từ ngán thể hiện sự buồn bã chán nản của Hồ Xuân Hương khi mỗi mùa xuân trôi đi mang theo tuổi tác và vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhà thơ Xuân Diệu thật đúng khi viết:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Tuổi trẻ tuổi thanh xuân là vô cùng hiếm hoi và quý giá vì thế cho nên Xuân Diệu, Xuân Hương hay chính chúng ta đều giữ gìn nó muốn nó mãi mãi tồn tại với mình. Thế nhưng quy luật tự nhiên không thể như thế được, ở đây Xuân Hương cũng vậy, tuổi trẻ của bà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa hạnh phúc vậy mà thời gian thì cứ trôi nhanh mang theo những nhan sắc vẻ đẹp của mình. Xuân này qua đi xuân khác lại đến mỗi một mùa xuân qua đi rồi lại một mùa xuân khác quay lại nó cứ tuần hoàn chảy trôi như thế mặc cho những dự định của con người còn dang dở chưa hoàn thành, mặc cho tuổi trẻ kia không thắm lại thêm lần nữa. Nhà thơ đã khéo sổ cái vô hạn với cái hữu hạn là như vậy. Mùa xuân cứ trôi còn người phụ nữ kia ngày càng thêm già mặc cho nàng chưa tìm được bến bờ hạnh phúc. Thời gian có đợi chờ ai bao giờ và Hồ Xuân Hương của chúng ta vẫn ngậm ngùi san sẻ một mối tình. Theo quy luật thông thường tình yêu là của hai người nhưng trong xã hội cũ những mảnh tình ấy được san sẻ thành nhiều mảnh, đó là những mảnh ghép tình mà khiến cho người phụ nữ buồn bã. Mảnh tình vốn con con mà lại phải san sẻ cho người khác qua đó ta thấy được xã hội cũ đã chà đạp lên hạnh phúc và tinh thần người phụ nữ như thế nào, trai thì năm thê bảy thiếp con gái thì chỉ vẻn vẹn chung thủy một người chồng.
Như vậy qua đây ta thấy yêu mến Hồ Xuân Hương cũng như quý trọng những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ phải chịu đựng những niềm đau nỗi buồn của cảnh lấy chồng chung, bị hắt hủi một mình trong đêm dài quạnh quẽ. Qua đó nhà thơ cũng nói về chính bản thân mình, có thể thấy bà đã góp một phần nói lên tiếng nói chua chát đau khổ của người phụ nữ trong xã hội xưa và chính vì thế Xuân Hương là cái tên mà mọi người vô cùng yêu mến vì những vần thơ hay bênh vực người phụ nữ. Xuân Hương đại diện cho tất cả những người phụ nữ thời trung đại nói lên những điều thầm kín trong lòng mình. Phải chăng đã góp phần làm nên tên tuổi của bà trong nền văn học trung đại Việt Nam? Xuân Hương là cái tên người ta nhớ đến nhiều nhất khi nhắc đến những thi sĩ nữ của văn học trung đại.
Thơ là thư kí của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh cuộc sống của con người, xã hội, để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng mình. Hay nói cách khác, mỗi bài thơ chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện như một hình thức nghệ thuật cao quý, tinh vi. Trong những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Xuân Diệu… Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo. Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Xuân Hương đem “tiêng lòng” của mình và những người phụ nữ xã hội xưa vào thi ca. Bà có cuộc đời và tình duyên éo le, trắc trở nên đã mượn ngòi bút để cất lên tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài thơ giá trị như “Bánh trôi nước”, “mời trầu”… Tiêu biểu trong đó là “Tự tình II”. Bài thơ đã bộc lộ tâm trạng vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
“Tự tình II” Nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng cái đặc sắc ở đây là tác giả không viết bằng chữ Hán mà là chữ Nôm. Bà đã “Việt hóa” thể thơ của người Hoa để bộc lộ suy nghĩ người Việt, tâm hồn người Việt. Đúng như giáo sư Lê Trí Viễn từng nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiên vần điệu cần xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Nhan đề “Tự tình” của bài thơ là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình, hay nói cách khác, đây chính là sự hé mở nỗi lòng khó nói của tác giả.
Hai câu đề đã mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Đêm đã về khuya, là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ “văng vẳng” đã được nữ sĩ sử dụng rất tự nhiên, tinh tế, khiến ta cùng lúc nhận ra không gian vừa mênh mông vừa vắng lặng lúc nửa đêm. Ở dây, Xuân Hương đã khéo léo sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh. “Trống canh dồn”, tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh là cách cảm nhận rất đỗi Á Đông. Đó là thời gian tâm lí thấm đậm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vận chìm trong giấc ngủ, đó lại cũng là lúc lòng người sâu lắng nhất, là lúc con người đối diện với chính bản thân mình. Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được cái buồn man mác len lỏi trong từng câu chữ được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống văng vẳng không quá gần mà lại nghe thấy cái nhịp “dồn” vội vàng , gấp gáp… Bởi, đó là tiếng trống gợi sự bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó được nghe bằng tâm trạng của người phụ nữ mang tâm thức cô đơn, ám ảnh trước thời gian. Không gian và thời gian đã được mở ra như thế, rất tài tình và tinh tế. Nhà thơ đã cảm nhận sự bẽ bàng của duyên phận qua câu thơ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tưởng mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó là hai từ “hồng nhan” là để chỉ sắc đẹp của người con gái, mà lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái hồng nhan “trơ” ra với nước non, với không gian, thời gian. Câu thơ đã gợi lên sự hồng nhan bạc phận. Vì vậy, nỗi xót xa càng thấm thía, đau xót. Nhịp điệu 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh sự bẽ bàng. Trong văn cảnh này, chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bền gan, thanh đố. Như vậy ở đay ra thấy được bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Ở hai câu đề, nữ thi sĩ đã tái hiện cho chúng ta thấy một không gian vắng lặng lúc đêm khuya. Trong thời khắc ấy, khi chủ thể trữ tình vẫn còn thao thức chưa ngủ ắt hẳn có điều gì trăn trở. Như thách thức số phận, nhà thơ mượn rượu để quên đi nỗi sầu. Cụm từ “say lại tỉnh” như là một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Mong muốn chút niềm an ủi từ thiên nhiên, cảnh vật, tác giả dùng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa ánh trăng và con người. Cảnh tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo le: Trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên còn chưa trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đăng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn “phận hẩm duyên ôi”. Sự đối lập giữa “say”-“tỉnh”, “khuyết”-“tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm giác chông chênh, không xác định được ranh giới giữa không và có, say và tỉnh. Cặp từ trái nghĩa đã giúp ta nhận ra được điều đó giữa hi vọng mong manh về hạnh phúc và hiện thực phũ phàng
Từ hình ảnh “vầng trăng” nhà thơ bắt đầu chuyển sang mượn thiên nhiên để miêu tả tâm trạng:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia cũng không chịu mềm yếu, khuất phục mà phải xiên ngang mặt đất trỗi dậy mạnh mẽ. Đá đã rắn chắc lại phải cứng cáp hơn để “đam toạc chân mày”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của cỏ cây, cũng như sự phẫn uất trong tâm trạng. Không chỉ vậy những động từ mạnh “xiên, đâm” cũng được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang trái. Điều đó đã thể hiện một phong cách Xuân Hương, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng, không khuất phục trước số phận đau khổ, muốn vươn lên bằng chính sức sống mãnh liệt của mình. Với tài năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát của Xuân Hương.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. “Ngán” là ngán ngẩm với nỗi đời éo le, với vòng xoáy của số phận. Từ “xuân” nay mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cây cỏ, hoa lá. Nhưng, với con người thì tuổi xuân qua là không bao giờ quay trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. “Mảnh tình” đã bé lại phải “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xua. Câu thơ là nỗi lòng của người phụ nữ vừa đau buồn vừa thách thức duyên phận, gắng gượng nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì vậy, ý nghĩa nhân văn của bài thơ càng sâu sắc, thấm thía hơn.
Trái tim Xuân Hương đã thức giấc để đập nhịp cùng những tâm hồn của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đối với văn học là quá khứ, nhưng bài học và những cảm xúc mà bà mang lại cho thế hệ ngày nay vẫn tồn tại, hiện hữu. Đó là bài học về sự vượt qua khó khăn, chiến thắng đau khổ. Cuộc đời nữ sĩ Xuân Hương đã hai lần chồng và đều thất bại, nhưng trong tim bà vẫn giữ nguyên nhịp đập hy vọng về hạnh phúc và tình yêu.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ lận đận tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn, xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc trong bút pháp của nữ sĩ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làng cho bài thơ trở nên sâu sắc, thấm đẫm cái ý cái tình của người phụ nữ.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận hẩm hiu và cũng là bi kịch, khát vọng hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng hay chính người phụ nữ phong kiến nói chung. Bài thơ đã truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn cảnh cay nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời. Quả thật, Xuân Hương rất xứng đáng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” khi đã để lại cho đời những áng văn bất hủ.