logo

Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích tiêu biểu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện nỗi xót xa, đồng cảm của tác giả với thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong 8 câu cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Hãy cùng Toploigiai Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất nhé!


Dàn ý cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất


a. Mở bài

- Giới thiệu qua về tác giả, tác phẩm và nhân vật.

- Giới thiệu về nội dung đoạn trích và tám câu thơ cuối


b. Thân bài

* Hai câu thơ đầu:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

- Phân tích không gian, thời gian và cảnh vật:

+ Không gian: cửa bể mênh mông, rộng lớn và vô tận. 

+ Thời gian: buổi chiều - là khoảng thời gian dễ khiến con người buồn và nhớ nhà.

+ Cảnh vật: con thuyền và cánh buồm nơi xa.

- Nghệ thuật: đảo ngữ "thấp thoáng" cùng từ láy “xa xa” làm tăng thêm cảm giác xa xôi và cô độc của Kiều.

* Hai câu tiếp: 

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

- Biện pháp ẩn dụ: hoa trôi ẩn dụ cho thân phận người con gái chìm nổi trên dòng đời.

→ Thể hiện sự mong manh, yếu đuối, không thể tự định đoạt của thân phận của mình. 

* Hai câu tiếp:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

- Cảnh vật và màu sắc của chúng:

+ “Rầu rầu”: là một màu sắc ảm đạm, úa tàn.

+ “Xanh xanh”: miêu tả không gian không có sự sống con người, trời đất lẫn vào nhau một màu xanh.

→ Diễn tả tâm trạng mệt mỏi chán chường của Thúy Kiều.

* Hai câu cuối:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

- Điệp ngữ : Buồn trông được lặp lại, thể hiện sự buồn tủi, chán chường của nhân vật.

- Từ láy: ầm ầm gợi âm thanh dữ dội của sóng cũng như sự kinh hãi của chính Kiều. Câu thơ như báo trước những sóng gió trong cuộc sống sắp tới của Kiều.


c. Kết bài

- Tổng kết về nội dung và nghệ thuật

- Nêu cảm nghĩ về bài thơ và về nhân vật.


Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất - Mẫu số 1

Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất

     “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích về những ngày tháng tăm tối của Kiều khi bị bán vào đây. Trong đoạn trích này, 8 câu cuối bài đã thể hiện rõ nét những nỗi buồn tủi và xót xa cho thân phận mình của kiều đồng thời thể hiện sự đồng cảm của tác giả cho số phận của người phụ nữ ngày xưa.

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

     Trong 8 câu thơ cuối, cứ hai cặp lục bát lại thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau của nhân vật Kiều. 

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

     Hai câu thơ đầu đã miêu tả được những không gian, thời gian và cảnh vật nơi Kiều ở đồng thời thể hiện nỗi nhớ của cô. Nơi Kiều ở là một nơi nhìn ra biển lớn, nó sâu thẳm, vô tận như chính cuộc đời tăm tối của cô. Thời gian khi đó đã là buổi chiều, cái thời gian mà khi đó, con người sẽ thường thấy buồn và nhớ nhà, nhớ người thân da diết. Điều đã đã được thể hiện trong những câu ca dao, tục ngữ quan thuộc như:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

     Ở nơi đó, cô cảm thấy cô độc và buồn tủi, không có ai bên cạnh trò chuyện, cảnh vật xung quanh cũng không có gì đặc sắc, chỉ có thuyền cùng cánh buồm nơi xa xa. Từ láy thấp thoáng và xa xa càng gợi lên sự xa xôi và cảm giác cô độc của Thúy Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

    Hai câu thơ tiếp thể hiện sự thương cót cho số phận của người con gái thời xưa. Hình ảnh hoa trôi là hình ảnh ẩn dụ cho số phận của người con gái dù đẹp nhưng luôn lênh đênh lận đận trôi trên dòng nước. Số phận của người con gái cũng vậy, họ chỉ biết ngồi im chờ dòng đời đưa đẩy, không biết đi về đâu. Chính họ cũng không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Câu hỏi tu từ biết là về đâu càng cho thấy sự tủi hờn với thân phận của mình.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

     “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Dù cỏ có xanh, dù trời có đẹp thì tâm trạng buồn nhìn đâu cũng thấy buồn theo. Cỏ không mang màu xanh mà mang màu “rầu rầu". Từ láy rầu rầu càng làm tô thêm sự bi thương, úa tàn, héo úa. Khung cảnh xung quanh chỉ có mây trời và biển cả, không có sự sống của con người. Mây trời và mặt đất như hòa làm một càng làm cho cảnh vật trở cùng tâm trạng con người trở nên buồn tủi và vô vọng hơn rất nhiều.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

     Điệp ngữ “Buồn trông” được lặp lại ba lần trong sáu cặp thơ lục bát, tạo nên âm hưởng trầm buồn, như một điệp khúc của đoạn thơ. Từ láy “ầm ầm” vừa diễn tả sự dữ dội của âm thanh vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Ngoài ra, câu thơ này cũng chỉ ra sự hiu quạnh của nơi ở Thúy Kiều, xung quanh biển rộng, không có âm thanh của con người mà chỉ có âm thanh của những cơn sóng dữ. 

     Tám câu thơ cuối đã được Nguyễn Du vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh, mỗi câu là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có ngòi bút tài tình, đã vẫn dụng thành công các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, điệp ngữ, đảo ngữ để nhấn mạnh vào cảnh vật và những xúc cảm của nhân vật Kiều. 

      Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” có thể được coi là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Đặc biệt trong tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn và lo âu của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua đây, Nguyễn Du đã cho thấy những cảm xúc và sự đồng cảm của mình với thân phận của người phụ nữ thời phong kiến. 


Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất - Mẫu số 2

Đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy sử dụng ngôn ngữ cũng như việc sử dụng các bút pháp nghệ thuật để miêu tả cảnh vật, miêu tả con người, đặc biệt là miêu tả nội tâm nhân vật. Một trong những đoạn trích miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất của Nguyễn Du chính là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Qua tám câu thơ cuối của đoạn trích, ta có thể thấy được tâm trạng đau đớn, buồn tủi và cô đơn của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích và tài năng nghệ thuật xuất sắc của đại thi hào.

Tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể được coi là đỉnh cao trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Bốn cặp thơ lục bát không chỉ cho thấy được đau đớn, cô đơn tột cùng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở chốn lầu Ngưng Bích mà còn mang những dự cảm về một tương lai sóng gió, gập ghềnh.

Mở đầu mỗi bức tranh tâm trạng là điệp ngữ "buồn trông". "Buồn trông" lặp lại bốn lần tạo thành điệp khúc trầm buồn, bộc lộ nội tâm nhân vật với nỗi buồn đang dâng lên tầng tầng lớp lớp, ngập tràn trong tâm hồn. Cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích như thấu hiểu, đồng điệu với nỗi đau của Thúy Kiều nên mỗi hình ảnh mà nàng nhìn đều thấm đượm một nỗi buồn da diết.

"Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được mở đầu bởi hình ảnh của bóng chiều hoàng hôn. Hoàng hôn như nhuộm đỏ cả bức tranh, cả không gian mênh mông và thời gian. Qua con mắt của Kiều, bóng hoàng hôn ấy thật trầm buồn, u uất như lớp lớp nỗi sầu đang trào dâng trong tâm hồn của nàng. "Chiều hôm" là khi bóng đêm dần bao phủ, đây là khoảng thời gian tĩnh nên dễ khơi dậy những tâm sự buồn trong tâm hồn con người. Không gian chiều tà mênh mông rộng lớn làm cho Thúy Kiều thấm thía hơn nỗi cô đơn, bé nhỏ và tình cảnh trớ trêu của mình ở nơi lầu xanh "khoá xuân" này. Không gian cộng hưởng càng khiến cho tâm hồn của người con gái xa nhà thêm buồn tủi, cô đơn, xót xa. Giữa mênh mông sóng nước vô tận mà cô độc ấy, Kiều mong mỏi một chút hơi ấm, một sự xuất hiện của sự sống để khiến nàng vơi đi sự cô đơn của mình. Và bóng "thuyền ai thấp thoáng" chính là biểu tượng của sự sống con người. Thế nhưng đó chỉ là một chiếc thuyền không rõ, hư ảo mịt mờ "thấp thoáng" ở nơi "xa xa". Nguyễn Du đã đặt ở đây từ láy "thấp thoáng" và "xa xa" cùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mơ ảo của con thuyền nơi cửa bể. Chiếc thuyền lênh đênh nơi "cửa bể" mờ mịt, không bến không bờ, vô định như chính cuộc đời của Kiều hiện tại. Nhìn con thuyền - biểu tượng cho sự sống của con người, ngỡ như nó mang tới cho Kiều một chút ấm áp nhưng trái lại nó lại càng gợi lên sự cô quạnh, gợi lên nỗi sầu lạc lõng vô biên trong tâm hồn chơi vơi của Kiều.

Nhìn xa ra nơi "cửa bể" nhưng không thể tìm thấy chút sẻ chia ấm áp, Kiều đành hướng mắt nhìn về nơi con nước gần bên mình:

"Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Giữa dòng nước đang cuộn chảy phía dưới chân Kiều, những cánh hoa đang xoay tròn rồi bị cuốn trôi đi. Những cánh hoa mỏng manh ấy là ẩn dụ về số phận của người con gái chìm nổi giữa dòng đời, gợi nhắc Kiều về số phận của một kiếp hồng nhan trôi dạt, lênh đênh. Những cánh hoa ấy nổi trôi bồng bềnh "bảy nổi ba chìm" như chính số phận của Kiều hiện tại. Câu hỏi tu từ "hoa trôi man mác biết là về đâu?" như xoáy vào trong tâm tư người đọc những trăn trở, những xót xa cho kiếp hồng nhan mỏng manh, phải phiêu bạt nơi chốn xa xôi, lạc lõng, cô đơn tới tuyệt vọng. Hai từ "về đâu" ở cuối câu thơ với hai thanh bằng tạo nên một cảm giác vô định như chính tình thế hiện thời của nàng. Ngồi một mình trong chốn thanh lâu, Kiều muốn tìm đến với thiên nhiên để vơi bớt đi nỗi lòng đau xót, tủi hờn, cô đơn của mình, thế nhưng, càng nhìn Kiều lại càng thấy nỗi sầu thêm chất chứa sâu nặng, tâm trạng càng thêm rối bời.

Nhìn về dòng nước, về cửa bể không tìm thấy chút niềm thân mật, an ủi, Kiều trở về với những ngọn cỏ xanh bên đôi bờ:

"Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt nước một màu xanh xanh"

Những tán cỏ xanh tưởng như sẽ giúp nàng xoa dịu chút ưu phiền, thế nhưng tất cả chỉ nhuốm một màu úa tàn, ảm đạm "rầu rầu". Đã không còn những "cỏ non xanh tận chân trời" như trong những ngày Kiều còn "êm đềm", tự do trong "trướng rủ màn che", giờ đây, những ngọn cỏ non xanh cũng nhuộm một màu tâm trạng của kiếp người lênh đênh. Nhìn từ xa tới gần, từ "chân mây" tới "mặt nước", tất cả không gian đều nhuốm một màu "xanh xanh" rợn ngợp. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng chán chường, ảm đạm đến thê lương của Kiều. Nỗi buồn đó của nàng còn thấm vào cảnh vật, vào không gian. Vốn là một khoảng không rộng lớn, với những màu xanh biêng biếc của cỏ non, của chân trời, vậy nhưng qua con mắt của Kiều, nó trở nên rợn ngợp và cô liêu biết bao. Không một âm thanh, không một tiếng động, chỉ có sự vắng lặng đến thê lương bao trùm lấy cảnh và người. Nguyễn Du đã vận dụng thật khéo léo nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở đây để làm nổi bật lên tâm trạng chán chường tới tuyệt vọng của Thuý Kiều.

Trong khung cảnh vắng lặng đến rợn ngợp ấy, Kiều muốn nghe được một tiếng vọng hồi đáp của con người để nàng cảm thấy được an ủi, để không cảm thấy sự cô đơn đến tuyệt vọng trong lòng, thế nhưng đáp lại, nàng chỉ nghe thấy tiếng sóng, tiếng gió, tiếng nước của thiên nhiên:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi"

Tất cả những cảnh vật xung quanh: gió, nước, sóng, đều gợi lên số phận lênh đênh, nổi trôi của nàng Kiều. Những "tiếng sóng" đang "ầm ầm" xung quanh nàng khiến cho Kiều sợ hãi. Bởi tiếng sóng ấy như là một lời dự cảm, một sự báo hiệu cho số phận tương lai đầy sóng gió của Kiều. "Tiếng sóng" "ầm ầm" "quanh ghế ngồi" ấy cũng khắc sâu tâm trạng đau đớn của Kiều. Bởi xung quanh nàng chỉ có thiên nhiên vắng lặng đến rợn ngợp mà chẳng thấy có một sự ấm áp nào của sự sống con người.

Qua 8 câu thơ, ta có thể thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa của Nguyễn Du. Điệp từ "buồn trông" cũng tạo nên nhịp điệu trầm buồn, điệp khúc mở đầu cho tám câu thơ. Cùng với đó, Nguyễn Du cũng vận dụng rất khéo léo hệ thống từ láy để tạo nên bức tranh tâm trạng của Kiều rất đặc sắc. Nhịp thơ thay đổi linh hoạt cùng ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, tất cả làm nên thành công cho bức tranh tâm trạng của Kiều.

Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã cho ta thấy được tâm trạng của Kiều khi bị lừa giam lỏng thông qua bút pháp miêu tả nội tâm cực kì đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du. Đồng thời nó còn cho ta thấy rõ được tấm lòng thương cảm sâu sắc, thấu hiểu cho số phận những người con gái tài hoa bạc mệnh. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những trích đoạn hay nhất trong thiên tuyệt phẩm Truyện Kiều.


Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất - Mẫu số 3

Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất (ảnh 2)

Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ ấy không chỉ thể hiện được cái tài hoa của người tác giả mà nó còn cho thấy cái hồn của tiếng Việt. Nhà thơ Nguyễn Du chọn thể thơ lục bát khi viết Truyện Kiều là ông đã làm được cả 2 điều trên. Truyện Kiều trở thành áng thi ca bất hủ của mọi thời đại. 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng đủ cho ta thấy được cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh ngụ tình. Cho đến nay, có lẽ chưa ai làm được điều này tốt như ông.

Thúy Kiều được miêu tả ở là người “sắc đành đòi một tài đành họa hai” nhưng “chữ tài đi với chữ tai một vần”. Những năm tháng “êm đềm chiếu rủ màn che” nhanh chóng kết thúc, thay vào đó là những năm tháng bi thương mà mở đầu là chuỗi ngày Kiều ở lầu Ngưng Bích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Đây có lẽ là giai đoạn khó khăn với Thúy Kiều khi mà cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn. Những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường, Kiều thương mình, thương gia đình, thương cả mối tình vừa mới chớm nỏ nhưng đã vội chia lìa. Lòng nàng đau như cắt và nó khiến cho khung cảnh xung quanh cũng trở nên ảm đạm theo. Trong 8 câu cuối này, hai tiếng “buồn trông” được nhắc lại tới 4 lần. Có thể thấy lúc này, Kiều không còn ai để dựa vào ngoài chính mình. Nàng mong chờ thiên nhiên tươi đẹp mang đến cho nàng chút gì đó làm niềm vui nhưng không, với đôi mắt “buồn trông” thì nàng không thể nhìn thấy những điều tốt đẹp.

Thúy Kiều hướng đôi mắt của mình về phía xa, nơi có nhà của nàng, có một người nàng thương yêu nhưng chưa kịp nói lời từ biệt:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buổi chiều hôm là lúc mà khung cảnh trở nên ảm đạm. Cộng thêm cái nhìn của Thúy Kiều về nơi cửa bể quạnh hiu càng làm tăng thêm sự nhỏ bé, nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Xót xa thay cho người con gái bé nhỏ. Nàng tìm kiếm cho mình một chút hiện diện của sự sống như mong muốn vơi đi nỗi cô đơn của mình:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Có thuyền, ắt hẳn phải có người. Nhưng sự sống ấy ở xa quá, chẳng đủ làm khỏa lấp nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Hai chữ “thấp thoáng”, “xa xa” chỉ làm tăng thêm cảm giác cô liêu. Bấu víu vào cánh buồm xa không được, Thúy Kiều hướng ánh mắt buồn trông về phía ngọn nước:

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cụm từ hoa trôi man mác khiến ta liên tưởng đến cánh bèo trôi. Cánh bèo thường được ví như thân phận của người phụ nữ. Hoa trôi về đâu? Cuộc đời của Thúy Kiều sau này sẽ đi về đâu? Thúy Kiều đặt ra câu hỏi cho cánh hoa nhưng cũng là đặt câu hỏi cho chính cuộc đời mình. Câu hỏi không có câu trả lời. Về đâu? Thúy Kiều cũng không biết được. Một cánh hoa trôi trên dòng nước lạnh lẽo, cô độc như Thúy Kiều của thực tại. Kiều lại đưa mắt về với mặt đất:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cỏ xanh không còn rợn chân trời như ngày tết thanh minh nữa mà giờ đã trở nên rầu rầu như tâm trạng của con người. Phải chăng, ngọn cỏ cũng hiểu cho tâm trạng của Kiều? Tâm trạng buồn rầu ấy phủ ngập lấy không gian xung quanh. Kiều nhìn xa về phía chân mây rồi lại nhìn gần xuống mặt đất nhưng nơi đâu cũng chỉ thấy một màu xanh xanh. Đó là một màu xanh xám ảm đạm của buổi chiều tà chứ không còn là màu xanh của sự sống trong tiết trời mùa xuân nữa. Chính nỗi buồn của Thúy Kiều đã nhuộm buồn màu xanh của cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích. Trong khung cảnh ấy, chỉ có Thúy Kiều với nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng. Nàng tha thiết tìm một tiếng vọng của sự sống nhưng không, những gì nàng nhận về chỉ có âm thanh của tự nhiên:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cách lựa chọn từ ngữ của Nguyễn Du rất tinh tế. Tất cả đều nhằm nói lên thân phận bèo trôi của Thúy Kiều. Tiếng sóng ầm ầm ở đây là tiếng sóng lòng của Thúy Kiều. Điều đó đủ cho ta thấy trong lòng nàng tâm trạng giằng xé dữ dội như thế nào. Tiếng sóng không làm phá vỡ không gian yên tĩnh của không gian mà nó càng làm khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn của Kiều. Đau đớn lắm chứ bởi lúc cần có người bên cạnh nhất thì Kiều chỉ tìm thấy được sự an ủi nơi thiên nhiên.

Đoạn thơ 8 câu đã nói lên được hết nỗi lòng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Bên cạnh đó, đoạn thơ cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, ngụ tình. Khép lại đoạn thơ nhưng hình ảnh, âm thanh của nó vẫn sẽ còn lưu lại mãi trong tâm trí người đọc.


Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất - Mẫu số 4

Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn", còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: "Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn". Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kỳ, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với "tấm gương oan khổ" Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
...
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Tám câu thơ trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công "nỗi lòng tê tái" của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.Hai tiếng "buồn trông" được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều "trước lầu Ngưng Bích", vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi "khóa xuân", Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian "chiều hôm" - thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống: Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? "Thuyền" chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ "thấp thoáng", "xa xa". Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về "ngọn nước" gần mình hơn:

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng "về đâu" cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất: Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: "rầu rầu". Đâu còn là "cỏ non" xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng "Êm đềm trướng rủ màn che". Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi "rầu rầu" ấy tràn ngập, lan tỏa khắp không gian: Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cái nhìn bao quát từ "chân mây" xa xăm đến "mặt đất" gần gũi, tất cả đều "một màu xanh xanh". Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân.Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:

“Tuyết in sắt ngựa câu giòn.

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.”

Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên.

Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận "Bên trời góc bể bơ vơ" của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng "ầm ầm" "kêu quanh ghế ngồi". Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia "tấm lòng'' với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.

Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc.


Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất - Mẫu số 5

Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có lẽ là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm, qua đó đã diễn tả sinh động tâm trạng Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, để lại ấn tượng không thể nào quên cho người đọc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Khung cảnh thiên nhiên của cửa biển trước lầu Ngưng Bích như hiện lên trước mắt ta: một nỗi buồn chiều hoàng hôn đẹp nhưng buồn và quạnh hiu. Đó là những con thuyền với những cánh buồm trắng nhấp nhô, con sóng bạc dập dềnh cuốn trôi từng cánh hoa, lác đác rơi trong ánh nắng cuối chiều, trảng cỏ xanh ươm nối liền đường chân trời xanh vô tận. Cùng với âm thanh dữ dội của biển khơi như một nét chấm phá cho cảnh vặt, bức tranh thiên nhiên chứa đựng trong nó biết bao nỗi niềm chất chứa của con người...

Qua những ngôn từ và hình ảnh miêu tả cảnh vật, bằng cách sử dụng khéo léo và tinh tế bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã cho ta hiểu và cảm thương với tâm trạng nàng Kiều.

Điệp ngữ buồn trông được sử dụng xuyên suốt đoạn trích tạo thành điệp khúc cho đoạn thơ và cũng tạo nên điệp khúc tâm trạng Thuý Kiều. Nỗi buồn trong Kiều như trào dâng như lớp sóng ồ ạt dồn về phía đại dương mênh mông. Nỗi niềm đó cứ triền miên, cứ dai dẳng, đeo bám, tạo thành cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, con người ta có muốn vùng thoát ra mà cũng không thể nào được. Mỗi cảnh vật như đều nói lên nỗi niềm tâm sự ấy.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Con thuyền không bến đậu, không nơi chốn quay về gợi nhớ nỗi nhớ, nỗi cô đơn của người đi xa, muốn trở về bên gia đình êm ấm, bên bạn bè thân thương, điều này vó cùng phù hợp với cảnh ngộ của Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cuộc đời Kiều bây giờ như cánh hoa mỏng manh trước sóng to gió lớn, chỉ biết mặc cho bão bùng, mưa giông vùi dập. Câu thơ bộc lộ nỗi lo lắng, xót xa, buồn tủi về cảnh ngộ lênh đênh chìm nổi trước sóng gió cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Thảm cỏ, biển cả với màu xanh vô vọng thật buồn và ảm đạm. Liệu có phải cánh cửa tương lai đang khép lại trước mắt Kiều, hố đen tuyệt vọng của số phận như lấp hết cả ước mơ và khát khao.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Ngoài kia, biển xanh đang cuộn sóng. Những âm thanh gợi sự việc kinh khủng, hãi hùng, như dự báo tai biến, nguy nan như chực đổ xuống thân phận bé nhỏ của Kiều.

Lần lượt từng câu hỏi tu từ vang lên như muốn xoáy sâu vào tâm can người đọc. Ta như hiểu, cảm thông, thương xót cho những lo lắng rối bời cùng nỗi hoảng sợ tuyệt vọng của Kiều trước tương lai vô định.

Có thể nói, đây là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất xuyên suốt tác phẩm. Qua bức tranh thiên nhiên, ta xót xa, thương cảm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh, qua đó cũng bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.

-------------------------------

Trên đây là bài Cảm nhận 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất. Mong rằng qua bài viết này, các bạn sẽ tiếp thu thêm được thêm được nhiều kiến thức bổ ích và nâng cao cho mình khả năng viết văn phân tích nhé!

icon-date
Xuất bản : 21/11/2022 - Cập nhật : 15/08/2023