logo

Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!


Dàn ý Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

1/ Giới thiệu chung:

- Nguyễn Duy là một nhà thơ quân đội, đã được giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ 1972 – 1973, một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

- Bài thơ "Ánh trăng" nằm trong tập thơ cùng tên - tập thơ được tặng giải A của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1984. Tác phẩm có ý nghĩa triết lý sâu sắc, là lời nhắc nhở về lối sống nghĩa tình, thủy chung với quá khứ gian lao, với thiên nhiên, đất nước và đồng đội.

- Hình tượng vầng trăng là một sáng tạo nghệ thuật sắc của nhà thơ với nhiều thông điệp ý nghĩa.

2/ Cảm nhận về hình tượng vầng trăng:

- Hình ảnh vầng trăng - biểu tượng cho quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp, nghĩa tình:

+ Vầng trăng là  vẻ  đẹp của  thiên nhiên tươi mát,  là  người bạn  hồn nhiên của tuổi thơ, là bạn tri kỉ của con người thời chiến tranh ở rừng.

+ Vầng trăng trong quá khứ là người bạn bình dị, hiền hậu, nghĩa  tình, trong sáng và thuỷ chung -> Là quá khứ vẹn nguyên không thể phai mờ.

+ Vầng trăng vừa là hình ảnh nhân hoá vừa là hình ảnh ẩn dụ mang  ý

nghĩa tượng trưng.

=> Vầng trăng là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước.

- Vầng trăng bị con người lãng quên trong cuộc sống hiện tại nhưng  nó

vẫn là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, vẹn nguyên:

+ Cuộc sống hiện đại với sự đầy đủ về vật chất, những "ánh điện", "cửa gương"... đã làm con người lãng quên đi người bạn nghĩa tình, lúc này vầng trăng trở thành "người dưng qua đường", bị coi như một người xa lạ.

+ Mặc dù con người đã quên đi quá khứ nhưng vầng trăng thì vẫn vẹn nguyên, không thay đổi -> vầng trăng biểu tượng cho sự vĩnh hằng của cuộc sống.

- Sự trở lại của vầng trăng làm thức tỉnh nhận thức, tình cảm của con người về quá khứ gian lao mà nghĩa tình:

+ Vầng trăng trở lại trong hoàn cảnh bất ngờ với con người: "Thình lình đèn điện tắt", đó là cơ hội để vầng trăng xuất hiện: "đột ngột vầng trăng tròn".

+ Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng đã làm dâng lên trong lòng con người cảm xúc "rưng rưng" nhớ lại quá khứ tươi đẹp, nghĩa tình -> sử dụng từ ngữ độc đáo, thủ pháp so sánh góp phần diễn tả hiệu quả cảm xúc.

+ Vầng trăng là nhân chứng nghĩa tình, hiền hậu, bao dung và cũng  rất nghiêm khắc để conngười phải "giật mình", thức tỉnh lương tâm, nhớ về quá khứ (phân tích dẫn chứng).

3/ Đánh giá chung:

-   Hình tượng vầng trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là một bài học giàu tính triết lí về thái độ sống ân nghĩa, thuỷ chung của con người đối với quá khứ của chính mình và dântộc.

Tác giả đã khắc họa hình tượng vầng trăng bằng ngôn ngữ tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm; giọng điệu tâm tình, khi ngân nga, thiết tha cảm xúc, lúc trầm lắng đầy ắp suy tư...


Dàn ý chi tiết Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

1. Mở bài:

     Một thành công lớn của nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ Ánh trăng đó là đã xây dựng hình tượng ánh trăng từ một đề tài khá cũ kĩ và đã hết đất để dụng công nghệ thuật, thế mà ông vẫn làm nên những điều mới mẻ đến bất ngờ. Hình tượng vầng trăng trong bài Ánh trăng chứa đựng tâm tư của cả một thời đại khiến chúng ta không ngừng suy nghĩ.

2. Thân bài:

     Trước hết, đó là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa, hiền hậu, bình dị gắn liền với kỷ niệm một thời nhà thơ hằng gắn bó. Ánh trăng gần với những kỷ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê.

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển”.

     Thời gian là “hồi nhỏ”. Không gian là những “đồng, sông, bể” gợi về một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Cuộc sống tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng con người được gắn bó, gần gũi và hoà hợp với thiên nhiên. Trăng khi đó là trò chơi của tuổi thơ cùng với những ước mơ trong sáng. Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hòa hợp với thiên nhiên “trần trụi”, “hồn nhiên”. Điệp từ ”với” như gắn kết ý thơ nhưng cũng là gắn kết con người với thiên nhiên, với vũ trụ, với vầng trăng tình nghĩa,

     Cuộc sống hồn nhiên, không chen lấn giành giật với đời, không nghi kị xảo trá mà tự nhiên, chan hòa với mọi người mọi vật. Vầng trăng của ngày ấy thật tự nhiên, không giấu, không che đậy, gần gũi hoang sơ như dáng vóc mộc mạc của con người, tỏa sáng vằng vặc. Thời gian dần qua, con người lớn lên và tham gia chiến đấu. Ánh trăng theo người lính ra chiến trường:

“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

     Trăng khi đó là ánh trăng trong đêm tối chiến tranh, là người bạn thân thiết của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến. Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã gợi về trong lòng người đọc cả một ký ức tuổi thơ, một tình bạn cao đẹp, thuần khiết, vô tư, không vụ lợi. Nhân vật trữ tình gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến đằng đẵng. Qua bao năm tháng chiến đấu, trăng vẫn tròn đầy, tình nghĩa, thuỷ chung.

     Như vậy, trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuốc sống bình di, vô tư, hồn nhiên và khẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng nghĩa tình, thủy chung. Hơn cả một sự chân thành, đó là lời thề trọn đời gắn bó, không bao giờ đổi thay.

     Trăng là người bạn sẵn sàng chia sẻ mọi vui buồn. Trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu. Trăng đồng hành cùng con người  trên mỗi bước đường gian lao. Trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hoà tình nghĩa…

3. Kết bài:

     Ở đây vầng trăng được nhân hoá trở thành người bạn tri kỷ với con người. Với sự gắn bó tình nghĩa ấy, nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ “ngỡ” như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ. Ý thơ lay động tâm hồn, thức tỉnh lương tâm những kẻ vô tình, gợi nhắc về cái “vầng trăng tình nghĩa”, về biểu tượng đẹp của một thời quá khứ hào hùng.


Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy - Bài mẫu 1

Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (ngắn gọn, hay nhất)

     Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước kiên cường, gian khổ của dân tộc. Nếu trước thời kì đổi mới, ông tập trung viết về chiến tranh với khuynh hướng sử thi thì sau đổi mới ông táo bạo và mạnh mẽ khi dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời. Và bài thơ "Ánh trăng", ra đời vào năm 1978 là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho thơ của Nguyễn Duy sau đổi mới. Đọc bài thơ, người đọc sẽ bị ám ảnh khôn nguôi bởi hình ảnh của vầng trăng - một hình ảnh giàu ý nghĩa và từ đó gợi lên nhiều suy ngẫm.

     Trong hai khổ thơ mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Duy đã vẽ nên hình ảnh của vầng trăng trong quá khứ. Khổ thơ mở đầu bài thơ đã gợi nhắc lại những kỉ niệm đẹp đẽ cùng tình cảm gắn bó giữa con người với vầng trăng.

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

     Những câu thơ ngắn, với giọng điệu tâm tình kết hợp với biện pháp liệt kê "đồng", "sông", "bể' cùng điệp ngữ "với" lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự gắn bó, thắm thiết bền chặt giữa con người với thiên nhiên. Đặc biệt, hình ảnh "hồi chiến tranh" ở rừng đã gợi lên những năm tháng chiến tranh vất vả, gian khổ, ác liệt. Và để rồi, trong chính hoàn cảnh ấy, vầng trăng trở thành người bạn, trở thành tri kỉ của con người. Trăng như một người bạn thân thiết, gắn bó cùng con người, luôn đồng cam cộng khổ và chia sẻ cùng họ mọi nỗi niềm trên chặng đường hành quân cũng như trong cuộc sống. Thêm vào đó, trong khổ thơ tiếp theo, tác giả đã tập trung làm bật nổi vẻ đẹp của vầng trăng yêu thương, "vầng trăng tình nghĩa".

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

     Với việc sử dụng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ "trần trụi với thiên nhiên', "hồn nhiên như cây cỏ", tác giả Nguyễn Duy đã gợi lên vẻ đẹp bình dị, trong sáng của vầng trăng và có lẽ đó cũng chính là vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ trong tâm hồn con người.

     Như vậy, vầng trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ với những kí ức chan hòa, tình nghĩ và thủy chung. Trong những tháng ngày gian khổ, thiếu thốn và vất vả, vầng trăng ấy vẫn luôn đồng hành với con người, trở thành người bạn tri kỉ của họ, cùng họ trải qua và san sẻ bao nỗi niềm trong cuộc sống.

     Nếu như trong quá khứ, vầng trăng là tri âm tri kỉ, thì trong cuộc sống hiện tại, trước bước chuyển của thời gian, sự biến đổi của hoàn cảnh đã khiến mọi thứ đổi thay.

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

     Tác giả đã khéo léo tạo nên sự đối lập trong hoàn cảnh sống của con người ở quá khứ và hiện tại với những tòa nhà cao tầng và ánh điện sáng chói. Sự thay đổi ấy của hoàn cảnh đã làm cho tình cảm của con người thay đổi. Hình ảnh ẩn dụ "vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường" đã thể hiện rõ sự thay đổi đó. Giờ đây, dẫu vầng trăng thủy chung, tình nghĩa vẫn còn đó song nó không còn là tri âm tri kỉ nữa mà ngược lại đã bị con người lãng quên, thờ ơ. Câu thơ với hình ảnh ánh trăng đã mang đến một tầng nghĩa khái quát: khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người có thể quên đi những gian khổ, nhọc nhằn của quá khứ song sự lãng quên ấy lại là lẽ thường, bởi nó xuất phát từ những lo toan của cuộc sống hằng ngày.

     Những tưởng, giữa cuộc sống phố thị tấp nập và đầy đủ tiện nghi, vầng trăng kia và con người sẽ chẳng còn có cơ hội để gặp lại nhau, song tác giả đã tạo ra một tình huống đầy bất ngờ để làm nên một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa.

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

     Hình ảnh "vầng trăng tròn" đột ngột xuất hiện, chiếu rọi ánh sáng vào căn phòng tối om đã khiến con người nhận ra vầng trăng tròn đầy, thủy chung, tình nghĩa với bao kỉ niệm tươi đẹp vẫn luôn còn đó, luôn sát cánh và đồng hành cùng con người trong mọi hoàn cảnh, chỉ có điều đôi lúc vì vô tình mà ta đã lãng quên chúng.

     Và để rồi, từ tình huống bất ngờ với cuộc gặp gỡ "đột ngột" ấy với vầng trăng đã mở ra trong lòng nhân vật trữ tình những dòng cảm xúc, những triết lí mãnh liệt và sâu sắc.

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

     Cuộc gặp gỡ, đối thoại không lời chỉ "ngửa mặt lên nhìn mặt" trong khoảnh khắc nhưng có lẽ đủ để cảm xúc dâng trào, đủ để lòng người thấy "rưng rưng" xúc động, nghẹn ngào và trước ánh trăng ấy, biết bao suy nghĩ, chiêm nghiệm của nhà thơ đã ùa về. Hình ảnh "trăng cứ tròn vành vạnh" không chỉ diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên, vũ trụ bao la, rộng lớn mà qua đó còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, trọn vẹn dù lòng người có đổi thay. Thêm vào đó, với nghệ thuật nhân hóa "ánh trăng im phăng phắc" đã gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc nhưng cũng đầy bao dung, độ lượng. Sự im lặng ấy khiến cho con người phải "giật mình" thức tỉnh.

     Tóm lại, hình ảnh vầng trăng trong bài thơ là một hình ảnh giàu ý nghĩa. Nó không chỉ là vầng trăng của thiên nhiên mà còn là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng của quá khứ nghĩa tình. Đồng thời, từ hình ảnh vầng trăng cũng gợi lên trong chúng ta nhiều bài học có giá trị và ý nghĩa sâu sắc.


Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy - Bài mẫu 2

Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy (ngắn gọn, hay nhất) (ảnh 2)

     Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông có giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư. Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978, ba năm khi chiến tranh kết thúc. Thông qua cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa vầng trăng và con người, bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu, từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Vầng trăng trong bài thơ là một biểu tượng đa nghĩa.

     Trong thi ca trung đại, trăng là biểu tượng của cái đẹp, của thiên nhiên vô tư và thuần khiết. Trong thi ca kháng chiến, trăng là ánh sáng, là người bạn, người thân cùng con người sống và chiến đấu. Trăng canh gác cùng người chiến sĩ trong bài thơ Đồng chí; trăng rọi đường hành quân trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu; trăng tâm tình, sẻ chia trong thơ Hồ Chí Minh,… Có thể nói, vầng trăng luôn kề cận con người mọi lúc, mọi nơi với tấm lòng thủy chung, son sắt bền chặt nhất.

     Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, một lần nữa, vầng trăng hiện lên với đầy đủ ý nghĩa ấy. Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời nhỏ tuổi, rồi thời chiến tranh ở rừng. Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế trăng còn là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống.

     Thuở bé thơ, cuộc sống nơi đồng quê tuy vất vả gian lao nhưng gần gũi với thiên nhiên, có vầng trăng và cây cỏ. Rồi đến khi đi kháng chiến ở rừng, vầng trăng cũng theo bước hành quân:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

     Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiên và khẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng là “tri kỷ”, “tình nghĩa”. Trăng là người bạn chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hoà tình nghĩa. Hai từ “tri kỷ” là một sự khẳng định đinh ninh nghĩa tình đậm sâu và bền chặt đến nỗi, con người nghĩ rằng:

“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”.

     Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ “ngỡ” như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ. Sau chiến tranh, người lính từ giã núi rừng nhưng không trở về miền quê mà lại lên thành phố – nơi đô thị hiện đại – một không gian xa lạ. Khi đó mọi chuyện bắt đầu đổi khác:

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”.

     Sự thay đổi của hoàn cảnh sống – không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt đã khiến con người đổi thay chóng quánh. Từ hồi về thành phố, con người say mê trong cuộc sống tiện nghi với “ánh điện, cửa gương” rực rỡ sắc màu. Người lính bình dị năm xưa bắt đầu quen sống với những tiện nghi hiện đại như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp hoá đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người. Anh lính đã quên đi chính ánh trăng đã đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên tình cảm chân thành, quá khứ cao đẹp nhưng đầy tình người.

     Vầng trăng tri kỷ ngày nào bỗng dưng trở thành “người dưng”, người khách qua đường xa lạ, còn con người đâu còn son sắt thuỷ chung. Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta không khỏi nhói đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa. Hành động “vội bật tung cửa sổ” và cảm giác đột ngột “nhận ra vầng trăng tròn’ cho thấy quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỷ, tình nghĩa như xưa, vì có người lúc này thấy trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà thôi.

     Câu thơ dưng dưng, lạnh lùng, nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống, tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng?. Bởi thế mà ca dao mới lên tiếng nói: “Thuyền về có nhớ bến chăng?”. Nhà thơ Tố hữu trong bài thơ Việt Bắc cũng đã diễn tả nỗi băn khoăn của nhân dân việt Bắc khi tiễn đưa cán bộ về xuôi:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đêm còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

     Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: đừng để những giá trị vật chất điều khiển chúng ta. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng được giải bày trung thực ở hai khổ thơ cuối. Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ, không hẹn trước:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

     Sự đổi thay của con người không làm vầng trăng cau mặt. Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. “Trăng tròn” là một hình ảnh thơ khá hay, không chỉ là ánh trăng tròn mà còn là tình cảm bạn bè trong trăng vẫn trọn vẹn, vẫn chung thuỷ như năm xưa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc.

     Từ cái đối mặt trực diện ấy, ánh trăng đã thức dậy những kỉ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên. Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỷ. Ngôn ngữ bây giờ là nước mắt rưng rức dưới hàng mi. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. “Ánh trăng” nghĩa tình hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.

     Trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”, không thay đổi gì. Đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.

     Ở đây, có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Trăng tròn vành vạnh, trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn thôi, một cái nhìn thật sâu như soi tận đày tìm người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc sống hòa bình hôm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp đẽ, thiêng liêng nhất của quá khứ để chìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn hoa mà ít nhiều sẽ mất đi những gì tốt đẹp nhất của chính mình.

     Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta : con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

     Phép nhân hoá trong câu thơ “Ánh trăng im phăng phắc” khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình, thủy chung nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người. “Ánh trăng im phăng phắc” tuy tĩnh lặng nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” tự thức bản thân, nhận ra sự vô tình lãng quên quá khứ tốt đẹp, tức là con người đang phản bội lại chính mình. Nó còn có ý nhắc nhở con người nên trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.

     Có thể thấy, hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể như rừng. Đó hoàn toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng rãi, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, khổng mặn mà với vầng trăng. Lúc này, trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, thủy chung; cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi.

     Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ cứ tươi đẹp, không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng tư ích kỷ mới có thể dửng dưng vô tình đến vậy. Nhưng vầng trăng ấy bao dung, không “kể chi người vô tình”. Chính thái độ lặng im cao thượng ấy càng làm những ai sớm quên quá khứ nghĩa tình phải giật mình.

     Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hòa bình. Những sông, đồng, bể, rừng là hình ảnh tượng trưng, nhưng cũng là hình ảnh thật của những người kháng chiến. Thành phố là môi trường mới, là hình ảnh thật của những người kháng chiến không đặt chân tới. Môi trường mới, hoàn cảnh mới làm cho con người sống cách biệt với thiên nhiên cũng có nghĩa là xa dần quá khứ, lạnh nhạt dần với quá khứ. Ánh trăng nghiêm nghị vằng vặc soi sáng hay cũng chính là lời cảnh báo tình trạng suy thoái về tình cảm, sẽ dẫn đến suy thoái lối sống, suy thoái đạo đức. Nó nhắc nhở con người cần thuỷ chung với quá khứ, với những điều tốt đẹp của quá khứ.

     Vầng trăng và ánh trăng mang ý nghĩa biểu trưng, trở thành hình tượng xuyên suốt bài thơ, tạo thành dòng chảy liên hồi, là sợi dây kết nối con người trong hiện tại và quá khứ đã qua. Cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Từ câu chuyện tưởng như là thường tình nhưng đã thức tỉnh con người. Con người tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Cảm nghĩ về hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021