logo

Biện pháp tu từ trong bài thơ Việt Bắc

Câu hỏi: Biện pháp tu từ trong bài thơ Việt Bắc

Trả lời: 

+ Điêp từ “nhớ”: diễn tả nỗi nhớ tràn đầy, tha thiết 

+ Hoán dụ “áo chàm”: Chỉ người Việt Bắc, diễn tả tình cảm quân dân gắn bó, tha thiết

+ So sánh : Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”; “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

+ Liệt kê: 

“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”;

 

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

….

+ Nhân hoá: 

“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”

Các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về bài Việt Bắc nhé!


1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ Việt Bắc

      Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.

      Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã từng "chia ngọt sẻ bùi". Người ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ; người ở lại cũng không khỏi bịn rịn, trống trải, bùi ngùi...

      Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu - một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của cách mạng đã sáng tác bài thơ "Việt Bắc" vào tháng 10-1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy làm tên chung cho cả tập thơ "Việt Bắc", một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.


2. Nội dung bài thơ Việt Bắc

      Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc…

      Việt Bắc là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cất lên âm hưởng anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.


3. Nghệ thuật bài thơ Việt Bắc

Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc:

  • Phát huy nhiều thế mạnh của thể thơ lục bát truyền thống: Cấu tứ bài thơ là cấu tứ trong ca dao với hai nhân vật trữ tình ta và mình.
  • Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, cân xứng, kết hợp hài hòa, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.
  • Ngôn ngữ bằng lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh.
  • Sử dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của văn học dân gian: mình về, có nhớ, nhớ sao...

Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

  • Chính trị: đề tài cuộc kháng chiến, vận mệnh đất nước,...
  • Trữ tình: so sánh tình cảm của cán bộ và nhân dân như tình yêu, xưng hô mình, ta, lời lẽ giàu tình cảm.

4. Phân tích bài thơ Việt Bắc

      Nếu nói Phan Bội Châu là người đã mở đường cho nền thơ ca trữ tình chính trị thì có lẽ mấy mươi năm sau Tố Hữu chính là người đã mang đạt đến đỉnh cao, trở thành một hiện tượng có giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng. Ngay từ khi còn trẻ Tố Hữu đã thể hiện mình là một nhà thơ, một người chiến sĩ cách mạng tận tâm, tận lực cả trong sáng tác và chiến đấu. Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ khi mới 18 tuổi và trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ đã trở thành bước đệm cho sự nghiệp sáng tác nhiều vẻ vang của nhà thơ. Mà đường thơ của Tố Hữu thì luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vị và đóng góp nhiều cho kháng chiến, có thể xem như là những tư liệu lịch sử được viết bằng văn chương, kết tinh của hai tính trữ tình và tính chính trị xuyên suốt. Thật không quá khi nói Tố Hữu là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách sáng tác ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái ta chung, hướng đến những tình yêu lớn, bộc lộ lòng trung thành với cách mạng, sự ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu như Từ ấy khiến tên tuổi Tố Hữu bất chợt vụt sáng trên thi đàn Việt Nam, thì Việt Bắc chính là chiến công vang dội nhất của nhà thơ trong sự nghiệp sáng tác, thể hiện rõ ràng sự trưởng thành và hoàn chỉnh trong tư tưởng, phong cách cũng như bút lực của nhà thơ.

      Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, tháng 7/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ trên không nổ ra và giành thắng lợi tuyệt đối, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, pháp rút quân về nước, miền Bắc lập lại hòa bình, chuẩn bị bước sang giai đoạn xây dựng và khôi phục đất nước sau chiến tranh. Đến tháng 10/1954, nhận thấy tình hình đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị dời toàn bộ cơ quan đầu não của đất nước từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để phục vụ cho các giai đoạn chính trị tiếp theo của đất nước. Như vậy sau gần 15 năm trời gắn bó, sống và chiến đấu cùng nhau như những người thân ruột thịt, nếm trải nhiều cay đắng ngọt bùi, thì đến hôm nay những chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và những con người thấm đẫm ân tình thủy chung để trở về miền xuôi chờ nhiệm vụ mới. Nhân sự kiện lịch sử có tính thời sự ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để bộc lộ những tình cảm, những ân tình của người ra đi đối với người ở lại, đồng thời cũng là một bản tổng kết kháng chiến có tính chất chính trị, điểm lại những mốc sự kiện lịch sử quan trọng trong suốt 10 năm trời kháng chiến chống Pháp tại núi rừng Việt Bắc. Có thể nói rằng ở phương diện tổng kết quá trình kháng chiến này, Việt Bắc và Bình Ngô đại cáo cũng có những nét tương đồng nhất định, dù rằng bản chất của hai tác phẩm là hoàn toàn khác nhau.

[CHUẨN NHẤT] Biện pháp tu từ trong bài thơ Việt Bắc

5. Bài văn Phân tích bài thơ Việt Bắc hay nhất

Trước hết khung cảnh chia tay đã được mở ra với những vần thơ rất mực ân tình, lưu luyến, tái hiện lại khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại, những con người đã từng có một khoảng thời gian dài sống và chiến đấu bên nhau, rất mực gắn bó, thân thuộc, mang trong mình những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên.

“ Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

 

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”

      Người ở lại là người lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ bộc lộ cảm xúc níu kéo sự tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau một thời gian dài gắn bó mà còn là sự khéo léo nhắc lại, gợi mở ra cả một vùng trời kỷ niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Bên cạnh đó cũng thể hiện tình cảm lưu luyến, buồn bã nhân buổi phân ly không chỉ là đối với người ở lại mà còn là của cả người ra đi về miền xuôi, nỗi xúc động khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, hay lối nói đối đáp “ta-mình”, cách xưng hô tựa như buổi chia tay của những người yêu nhau mà Tố Hữu sử dụng, đã mang đến những rung cảm mới lạ, đậm âm hưởng vùng miền Tây Bắc, rất thiết tha, ân tình, sự gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi bên. Dễ dàng đưa người đọc hòa vào một bầu trời ký ức mà cả hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên nhau đối đáp, gợi lại một cách dịu dàng, đằm thắm, như những lời tâm tình, thủ thỉ đầy bịn rịn của đôi lứa yêu nhau.

“- Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

 

- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

 

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

      Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, sự thiếu thốn cái ăn, cái mặc trong những năm đầu với “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng không thể nào đánh gục được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta những “trám bùi”, “măng mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả núi rừng thủy chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện, những trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành cho Việt Bắc và cả con người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia xa, ngày gặp lại chưa biết là khi nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.../Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào “đinh ninh” trong dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa như nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những người yêu nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc ghi trong lòng về thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên”, “nắng chiều”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, nhớ cả những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất.

      Hơn thế nữa với cả con người và thiên nhiên Việt Bắc nhân vật trữ tình “ta” tức là người ra đi còn có những cảm nhận, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp thực hài hòa và gắn bó trong bức tranh tứ bình:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

      Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của “rừng xanh” thăm thẳm, gợi ra hiện thực lạnh lẽo, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, tuy nhiên với sự xuất hiện thật tinh tế rực rỡ của bông “hoa chuối đỏ tươi”, gam màu nóng đã phần nào làm dịu đi cái giá rét, độc hại, mang đến sự lãng mạn, trữ tình nhưng không hoàn toàn tránh né hiện thực chiến đấu gian khổ ở nơi đây. Hình ảnh con người nổi bật khỏe khoắn với cảnh “dao gài thắt lưng”, thể hiện tư thế hiên ngang, xông pha núi rừng, dưới cái ấm áp của ánh nắng mùa đông, nhiệt huyết của con người trong công cuộc trèo đèo lội suối, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Đông qua, xuân tới với cảnh tượng “mơ nở trắng rừng”, một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng thanh nhã, dịu dàng càng làm tôn lên cái sự dẻo dai, khéo léo của con người nơi đây với công cuộc lao động tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hè được gợi ra không chỉ nằm ở phần nhìn, mà còn mở rộng với cả âm thanh, đó là tiếng ve kêu rộn rã với cảnh “rừng phách đổ vàng”, gợi cho người đọc những cảm giác sôi động, tràn đầy sức sống, mà con người giữa khung cảnh ấy thì vẫn miệt mài lao động, hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một mình, khiến người ta không khỏi thêm yêu, thêm nhớ và xúc động. Kết thúc bức tranh tứ bình là cảnh tượng mùa thu được gợi ra với “trăng rọi hòa bình”, vốn là một hình ảnh có nhiều ý nghĩa. Xưa nay trăng luôn tượng trưng cho những gì tươi đẹp, dịu dàng, thanh mát, cũng tượng trưng cho sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời nói đến mùa thu người ta vẫn thường nhắc đến rằm tháng tám trăng tròn vành vạnh. Mà trong câu thơ này “trăng rọi hòa bình” cũng chính là ẩn dụ cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc, ánh trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp bình yên, tươi sáng. Đồng thời cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng chuẩn bị hành trang về thủ đô Hà Nội, nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên thật sâu sắc trong “tiếng hát ân tình thủy chung” sau bao nhiêu năm tháng gắn bó. Có thể nói rằng bức tranh tứ bình về Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng và đặc sắc nhất của toàn bộ tác phẩm, bộc lộ không chỉ vẻ đẹp con người và thiên nhiên nơi đây mà còn là cả một ẩn dụ cho quá trình kháng chiến bắt đầu vào mùa đông và kết thúc thắng lợi vào mùa thu, thể hiện tài năng quan sát tinh tế, sự khéo léo, chất trữ tình chính trị và cả tình cảm gắn bó sâu nặng của Tố Hữu với vùng đất lắm ân tình thủy chung này.

      Nỗi nhớ, tình cảm gắn bó, quyến luyến của người ra đi không chỉ nằm trong những ký ức về cảnh sống, cảnh sinh hoạt mà còn bộc lộ thông qua quãng đường chiến đấu và hy sinh của cách mạng. Tuy Tố Hữu không hề đi sâu vào miêu tả rõ ràng các trận đánh lịch sử mà chỉ điểm lại đồng thời bộc lộ những cảm xúc bùi ngùi, tha thiết thế nhưng cũng đã đủ để gợi nhắc về một thời chiến đấu oanh liệt của cách mạng ta giữa núi rừng Tây Bắc.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

 

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về”

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

      Từ những ngày chiến đấu đầy gian khổ “giặc đến giặc lùng”, nhưng nhờ có sự đoàn kết quân dân một lòng, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường, mà rừng núi trước đây vốn hiểm trở, mang lại nhiều khó khăn cho cách mạng, ngày nay đã trở thành người bạn chiến đấu, trở thành “lũy sắt dày”, che chở cho bộ đội lại vây khốn quân thù, trợ lực cho quân đội ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Rồi sau những ngày còn bỡ ngỡ, non yếu lực lượng ta ngày một mạnh mẽ, kiêu hùng, anh dũng trong chiến đấu vang vọng cả một miền rừng Việt Bắc, ngày một tiến dần đến chiến thắng sau cùng.

“Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

 

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”

      Phần cuối của đoạn trích, tuy chưa phải là kết thúc của tác phẩm, nhưng lại có ý nghĩa đánh dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp suốt từ những năm 1940 cho đến năm 1954. Mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, dù vẫn bị chia cắt hai miền nhưng lại là động lực lớn cho công cuộc thống nhất đất nước, miền Bắc đi vào xây dựng kiến thiết đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, vào sự đúng đắn của cách mạng, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

      Việt Bắc là một tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong các sáng tác của Tố Hữu cũng như trong nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa, lối xưng hô “ta-mình” thân thiết gắn bó, lời thơ tình cảm, thấm đẫm ân tình, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bộc lộ được sự lưu luyến, bịn rịn phút chia ly, tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ nhiều gian khổ, khó khăn. Đồng thời thi phẩm cũng có ý nghĩa đúc kết một giai đoạn lịch sử hết sức gian lao, nhiều vẻ vang, lắm hào hùng của dân tộc, thể hiện tấm lòng ân nghĩa thủy chung của cách mạng với chiến khu Việt bắc, lòng tự hào, niềm tin , niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

icon-date
Xuất bản : 05/08/2021 - Cập nhật : 20/11/2022