logo

Vì sao vua Quang Trung lại đề cao chữ Nôm

icon_facebook

Câu trả lời đúng nhất: Chữ Nôm là cách viết biểu ý ngày xưa của tiếng Việt. Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm 939, chữ Nôm lần đầu tiên thành chữ quốc ngữ để diễn đạt tiếng Việt qua mẫu tự biểu ý. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn kiện hành chính được viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Vua Quang Trung đề cao chữ nôm là do chữ Nôm là chữ do người Việt sáng tạo ra từ rất lâu. Việc đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm thành chữ viết chính thức của nước ta cũng chính là đề cao tinh thần dân tộc. 

Cùng Top lời giải tìm hiểu về chữ Nôm trong bài viết dưới đây.


1. Chữ Nôm là gì?

Chữ Nôm là khái niệm dùng để chỉ các loại văn tự khối vuông được xây dựng trên cơ sở chất liệu chữ Hán (các chất liệu gồm có: tự dạng, âm đọc, phương thức kết hợp, phương thức dùng chữ) để ghi lại một số ngôn ngữ của các dân tộc cư trú tại lãnh thổ Việt Nam. Văn tự khối vuông dùng để ghi ngôn ngữ của người Việt (Kinh) thì gọi là Chữ Nôm Việt; văn tự dùng để ghi lại tiếng Tày gọi là Chữ Nôm Tày, loại văn tự dùng để ghi lại tiếng Ngạn gọi là Chữ Nôm Ngạn, loại văn tự dùng để ghi lại tiếng Dao gọi là Chữ Nôm Dao. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tiến hành nghiên cứu chữ Nôm Việt (gọi chung là chữ Nôm) ở các khía cạnh lịch sử, cấu trúc và vị trí của thứ văn tự này trong bối cảnh văn hóa- văn tự của khu vực Đông Á.


2. Nguồn gốc của chữ Nôm

Chữ Nôm là cách viết biểu ý ngày xưa của tiếng Việt. Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm 939, chữ Nôm lần đầu tiên thành chữ quốc ngữ để diễn đạt tiếng Việt qua mẫu tự biểu ý. Hơn 1.000 năm sau đó—từ thế kỷ 10 cho đến thế kỷ 20—một phần lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, tôn giáo và hành chánh được viết bằng chữ Nôm. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn kiện hành chánh được viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Những văn bản như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi có xen chữ Nôm khi không thể tìm được một chữ Hán mang nghĩa tương đương chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt bởi quan niệm sai lầm của giới sĩ đại phu các triều đại: "nôm na là cha mách qué". Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là công cụ còn chưa chứng tỏ được tính hữu hiệu và phổ dụng của nó so với chữ Hán.

Vì sao vua quang trung lại đề cao chữ nôm

Sau khi đất nước giành được độc lập, chữ Nôm ngày càng phát triển hoàn chỉnh hơn. Thời Lý - Trần đã xuất hiện những tác phẩm văn học bằng chữ Nôm đầu tiên. Hàn Thuyên - quan thượng thư bộ hình thời Trần - được xem là người đầu tiên sáng tác thơ bằng chữ Nôm.

Hồ Quý Ly - vị vua nổi tiếng với những cải cách tiến bộ vượt thời đại - dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (1400-1407), ông cũng kịp đưa chữ Nôm vào nội dung thi cử, cho dịch một số sách ra chữ Nôm.

Nhà Hồ sớm bị đánh bại nên những cải cách của Hồ Quý Ly mãi chỉ là giấc mơ dang dở.

Sang đến thời Hậu Lê (1428-1789), chữ Nôm đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhiều tác phẩm văn học như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập của vua Lê Thánh Tông hay Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm… được sáng tác bằng chữ Nôm.

Dưới thời Nguyễn, chữ Nôm tiếp tục được người Việt sử dụng rộng rãi trong dân gian, đặc biệt trong sáng tác thơ phú. Những tác giả tiêu biểu là bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu…

Với chữ Nôm Việt, ở Việt Nam đã hình thành nên một nền văn chương chữ Nôm (bên cạnh văn chương chữ Hán). Và chính trong lĩnh vực sáng tạo văn học, chữ Nôm gắn liền với ngôn ngữ dân tộc đã tạo nên những tác phẩm có giá trị, chiếm những vị trí cao nhất trong văn học cổ điển Việt Nam.

>>> Xem thêm: Các tác phẩm văn học chữ Nôm


3. Vì sao vua Quang Trung lại đề cao chữ nôm?

Cùng với sự phát triển của lịch sử, chữ Nôm phát triển, chiếm được vị trí ngày càng quan trọng trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, chữ Nôm vẫn chưa thể vươn tầm thành thứ văn tự chính thức, được sử dụng trong các văn bản của quốc gia. Nó chỉ tồn tại như ngôn ngữ dân gian, ngoại trừ thời gian trị vì 24 năm của nhà Tây Sơn.

Bốn trang đầu của sách Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca dùng chữ Nôm để học chữ Nho.

Vua Quang Trung chính là người đầu tiên trong lịch sử đưa chữ Nôm vào các văn bản hành chính của nhà nước thời kỳ này.

Vua Quang Trung lại đề cao chữ nôm là do chữ Nôm là chữ do người Việt sáng tạo ra từ rất lâu. Việc đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm thành chữ viết chính thức của nước ta cũng chính là đề cao tinh thần dân tộc.

Nhà vua đã cho lập Sùng Chính thư viện ngay tại chân núi Thiên Nhẫn, nơi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp quy ẩn để mời ông làm viện trưởng, chịu trách nhiệm dịch các loại sách thời kỳ này sang chữ Nôm.

Cùng với Nguyễn Thiếp, nhiều nhân sĩ nổi tiếng thời kỳ này cũng được mời ra cộng tác như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch…

Vào năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện Sùng Chính dịch xong bộ Tứ thư và Tiểu học. Nhà vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch…

Nhờ sự khuyến khích của vua Quang Trung, văn chương chữ Nôm thời kỳ này phát triển mạnh, khẳng định được vị thế của mình. Tiếc là, sự ra đi của vua Quang Trung kéo theo sụp đổ của vương triều Tây Sơn, khiến chữ Nôm không còn giữ được vị thế của mình.

Đến thời Nguyễn, Nhà nước lại quay lại với việc sử dụng chữ Hán trong các văn bản hành chính nhà nước.

-------------------------

Trên đây Top lời giải đã tổng hợp những kiến thức về chữ Nôm và giải thích Vì sao vua Quang Trung lại đề cao chữ Nôm?. Với những thông tin trên, hi vọng bạn sẽ có thêm kiến thức để học tập tốt hơn. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết.

icon-date
Xuất bản : 31/05/2022 - Cập nhật : 31/05/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads