Hồ Xuân Hương được biết đến là một nữ tài tử nổi tiếng thời phong kiến. Trong thời đại chỉ có đàn ông được đi học, tài năng của bà lại được đấng mày râu kính nể, được ca tụng là “bà chúa thơ Nôm”. Văn thơ của bà chủ yếu nói về vẻ đẹp, số phận người phụ nữ và tức cảnh sinh tình. Bà đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị, ngay bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu về Tuyển tập 30 bài thơ hồ xuân hương về tình yêu, cuộc sống, nỗi niềm hay nhất qua bài viết dưới đây!
Hồ Xuân Hương là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt, được đánh giá cao về khí chất và bản lĩnh.
Hồ Xuân Hương là một phụ nữ thông minh. Bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Bà sinh năm 1772 tại Thăng Long có nguyên danh Hồ Phi Mai với biểu tự Xuân Hương, trong cuốn Giai nhân dị mặc chép rằng nhà thơ là con gái của Sinh đồ Hồ Phi Diễn, quê ở Nghệ An.
Năm mười ba tuổi, sau khi thân phụ mất thì Hồ Xuân Hương theo mẹ về làng Thọ Xương đi học rồi ở nhà giúp việc. Bà có một tuổi thơ êm đềm ở dinh thự Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, khi ấy là nơi xa hoa bậc nhất Đàng Ngoài.
Mẹ bà đã tái hôn với người khác sau khi mãn tang chồng, mặc dù sống trong ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến nhưng Hồ Xuân Hương vẫn có được tư chất thông minh và hiếu học, điều này được bộc lộ ở khả năng sáng tác tuyệt vời của bản thân.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Tuy nhiên, theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến.
>>> Tham khảo: Tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc của Hồ Xuân Hương qua bài Tự tình 2
Thánh thót tàu tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Êm ái chiều xuân tới Khán Đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây, chín rõ mười
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gũi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
Tuy không thả lá trôi dòng ngự.
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngàn
Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lạch khe nước rỉ mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am
Đến nơi mới biết rằng Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối hãy còn ham
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ sao soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng mấy nước non?
Kìa ai tỉnh, kìa ai say
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay
Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Trăm vẻ như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh
Phiếu mai chăng dám đường kia nọ
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Có một thú vui sao chẳng vẽ
Trách người thợ ấy khéo vô tình
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Thương thay phận gái cũng là người
Nỡ bỏ xuân xanh quá nửa đời
Ông Nguyệt nỡ nào trêu quải mãi
Chị Hằng khéo nhẽ éo le thôi
Hoa còn phong nhụy ong ve vãn
Gió đã phai hương bướm tả tơi
Quá ngán thợ trời ghê gớm bấy
Xuân xanh được mấy chút thương ôi
Thương ôi phận gái cũng là chồng
Ghét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ông
Rồng tắm ao tù từng phận tủi
Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong
Xót thân hoa nở song lầm cát
Thẹn mặt trần ai đứng giữa vòng
u hẳn tiền nhân sao đấy tá
Thôi đành một kiếp thế cho xong
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Đông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng...
Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc một bên chồng.
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông.
Chồng con cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không?
Mười hai bà mụ ghét gì nhau
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào ai biết được vông hay tróc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu
Trời cách mây mù thảm chả xanh,
Mưa thu sân vắng giọt buồn tanh.
Đầu cành cây héo châu dài vắn,
Trên lá tiêu vàng tiếng chậm thanh.
Hát dứt đê mê mơ vạn dặm,
Sầu giăng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê sâu rất khổ mày hoa ấy,
Vẻ mặt buồn thương vẽ chẳng thành.
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve.
Mải việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng háng một lúc đã đầy phè.
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con.
Tình có theo ai nhớ lấy lời
Những lời vàng đá phải lời chơi
Đường tuy nửa bước xa ngàn dặm
Duyên chửa trăm năm cũng một đời
Tần Tấn đã đành duyên gặp gỡ
Ngô Lào chi quản chuyện xa xôi
Trăng thề muôn kiếp trơ trơ đó
Tình có theo ai nhớ lấy lời
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Ðể đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Rắp hỏi chơi đây những thẹn thùng
Chữ tình ai nỡ dứt cho xong
Những người trong cuộc nhiều người lạ
Là của trên đời vốn của chung
Duyên phận ngán thay thân yểu điệu
Tài hoa gầy cả mặt anh hùng
Này thơ ai tặng ai ai đó
Gặp gỡ rồi ra họa có không
Có tình yêu nào mà không đau
Đã yêu chất chứa sẵn vui sầu
Em ơi, anh nén lòng anh lại
Chưa dám, gặp em, ngỏ một câu
Đốt ngún hồn anh như lửa thầm
Bao năm bao tháng mối tình câm
Yêu em tha thiết, yêu da diết
Như ủ hầm sâu rượu sủi tăm
Như rượu lưu niên càng ngấm say…
Em yêu! Nghiêng bóng đẹp đôi mày
Tóc mun nghiêng bóng mành tơ nhẹ
Ru dịu lòng anh trong phút giây
Tình mạnh hơn đời, mặn muối đời
Yêu em say đắm, chết khôn nguôi
Gặp nhau một thuở, tình ngàn thuở
Hôn nắng mùa em, anh cháy môi
Thảm hại chiều xuân chẳng nể nhau
Yêu hoa chi để với hoa sầu
Nửa sân phong nguyệt chưa chồi ngọc
Một bức thư tình lặng hạt châu
Hồn bướm năm canh bầu bạn thỏ
Cầu ô muôn kiếp vợ chồng Ngâu
Tương tư biết thuở nào khuây khỏa
Giọt nước duềnh Tương đã đến đâu
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.
Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
------------------------------------
Vậy là bên trên chúng ta đã đi tìm hiểu về Tuyển tập 30 bài thơ hồ xuân hương về tình yêu, cuộc sống, nỗi niềm hay nhất. Qua đây, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế của bà qua các tác phẩm.