logo

Tác giả Trần Tế Xương Thương vợ


Câu hỏi: Tác giả Trần Tế Xương Thương vợ


Trả lời:


1. Tác giả Trần Tế Xương

a. Cuộc đời

Tác giả Trần Tế Xương Thương vợ

- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương

- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định ( nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).

- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:

+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).

+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).

+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.

b. Sự nghiệp văn học

Tác phẩm chính

- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...

- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...

c. Phong cách nghệ thuật

- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.

- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.

- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời. 


2. Bài thơ Thương vợ

a. Giá trị nội dung

- Xây dựng thành công hình ảnh của bà Tú - một người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh, đã gánh vác gia đình với những gánh nặng cơm áo gạo tiền đè lên đôi vai gầy. Đồng thời, thông qua đó, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình thương yêu, quý trọng người vợ của Trần Tế Xương

- Ẩn đằng sau hình ảnh của người vợ tảo tần sớm khuya ấy là hình ảnh của ông Tú với đầy những tâm sự. Bà Tú hiện lên càng đảm đang, tháo vát vất vả bao nhiêu thì ông Tú lại càng nhỏ bé, nhạt nhòa, vô dụng bấy nhiêu. Đây chính là sự bất lực của người trí sĩ đương thời trước dòng đời nổi trôi và xã hội quan liêu thối nát.

b. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt bình dị, tự nhiên và giàu sức biểu cảm; cảm xúc chân thành tiêu biểu cho thơ trữ tình của Trần Tế Xương

- Vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò và cách nói của văn học dân gian trong việc khắc họa hình ảnh của bà Tú 

- Hình ảnh của bà Tú được nhắc đến với giọng điệu ngợi ca, đầy yêu thương còn hình ảnh của tác giả ẩn đằng sau đó lại được nhắc đến với giọng điệu trào phúng, bất lực.

c. Phân tích bài thơ Thương vợ
   Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ thường không được quan tâm nhiều. Một người phụ nữ phải chịu nhiều “gông xiềng” đeo trên vai. Nào là “Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nào là “tam tòng, tứ đức”,... Dường như người phụ nữ luôn xuất hiện phía sau người chồng, người con của mình. Họ không có được sự tự do trong cuộc sống và thường là người gánh chịu nhiều nỗi đau về tinh thần do tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo. Vậy nên trong suốt chiều dài lịch sử, những thi nhân thường không đưa hình ảnh người vợ vào trong thơ ca của mình, mà thay vào đó là “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Bởi thế, Trần Tế Xương đã được người đời nhớ đến khi trong thơ ông, hình ảnh một người vợ lam lũ, vất vả đã được khắc họa một cách đầy đủ với thái độ trân trọng và yêu thương. Đó thực sự là một nét chấm phá đặc biệt của văn học thời kỳ phong kiến. Bài thơ “Thương vợ” của ông được xem như một trong những tác phẩm “khác lạ” giữa nền thi ca.

   Nói bài thơ này khác lạ bởi thông thường các thi sĩ chỉ làm thơ về người bạn đời của mình khi họ đã mất đi. Còn với Tú Xương, ông đã viết về người vợ của mình một cách chân thực, sống động và đầy lòng yêu thương ngay khi vợ ông còn sống. Khác lạ còn bởi trong xã hội phong kiến, người đàn ông là chủ gia đình, mọi quyết định đều do họ. Và hiếm ai chấp nhận một sự thật rằng vợ chính là người nuôi sống cả một gia đình. Ấy nhưng với Tú Xương, đó là một điều hiển nhiên, bởi ông còn bận học hành, thi cử để có chút công danh. Và không ai khác ngoài người vợ chính là nguồn sống cho cả gia đình. Điều đó được khẳng định ở ngay câu đầu tiên của bài thơ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

   Sự vất vả, cực nhọc đã được thể hiện một cách rõ ràng. Một mình người vợ mà phải “cõng” tới năm người con và một đức ông chồng. Chữ “mom” ở đây rất có giá trị. Mom là một mô đất nhô ra bên bờ sông, nó nhỏ bé và gợi lên chút gì đó chênh vênh, không bền vững. Đối lập với đó là năm người con và người chồng. Một sự đối sánh có tính chất không cân đối đã nói lên muôn vàn vất vả lo âu của người vợ cho gia đình của mình. Làm sao để có thể kiếm sống để chu đáo cho một gia đình với những đứa con nhỏ.

    Người phụ nữ trong thời đại phong kiến thường được ví như những “hạt mưa sa”, “giếng giữa đàng”, ý nói về sự bấp bênh của số phận, may mắn thì được vào gia đình tốt, được yêu thương còn không thì gặp muôn vàn đắng cay, khổ cực mà không biết kêu ai. Ở trong những câu tiếp theo, dường như Tú Xương đã cảm thán thay cho người vợ đáng thương của mình.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

   Hình ảnh người vợ đã được ông ví như cánh cò nơi dòng nước, nhỏ bé, cô đơn. “Thân cò” là một sự so sánh vô cùng hợp lí và thú vị dành cho người vợ. Động từ “lặn lội” đã phác họa rõ nét hơn tình cảnh của người vợ, người mẹ. Có lẽ đọc đến đây ta cũng xót thương cho những người phụ nữ thời xưa. Hình ảnh người vợ Tú Xương cũng là sự khái quát cho những người phụ nữ Việt Nam thời kỳ phong kiến, phải lam lũ, vất vả một nắng hai sương lo cho gia đình, nhưng lại không được công nhận. Và qua những vần thơ, dường như Tú Xương đang tạo nên một bước chuyển mới trong nhận thức của các đấng nam nhi, cần phải coi trọng người phụ nữ của mình nhiều hơn nữa.

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công

   Việc sử dụng cặp từ “một duyên”, “hai nợ” cho thấy Tú Xương không chỉ đồng cảm với sự vất vả của vợ, mà còn nhận thấy giữa hai vợ chồng có sự gắn bó từ kiếp trước. Có duyên mới tới được với nhau và đến được với nhau rồi đó lại là một điều không thể tách rời, bởi đó là “nợ”. Có lẽ ông cho rằng mình đã nợ vợ một món nợ không thể trả. Bởi thế cho nên duyên phận đã gắn bó ông với vợ. Nhưng có một sự “nói hộ” của ông ở đây. Dường như đây là lời của Tú Xương nhưng cũng chính là tâm sự của người vợ. Bởi ở câu thơ sau: Năm nắng, mười mưa, dám quản công, cho thấy dẫu có vất vả, nhọc nhằn, người vợ cũng không dám kể lể công tích của mình, xem như đó là việc mình phải làm cho gia đình. Đó chính là sự vị tha, bao dung và nhẫn nhục của người phụ nữ Việt Nam.

   Sự cam chịu của người vợ đã khiến cho Tú Xương không đành lòng. Nhưng người vợ không bao giờ nói ra với ông những nỗi vất vả, khó khăn ấy. Và chính ông đã là người nói ra giúp vợ mình. Một tiếng thơ cũng là tiếng thở than, trách cứ, dằn vặt của người chồng, là tiếng trách mắng nhẹ nhàng của người vợ dành cho người chồng:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

   Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “ở bạc”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bà trên đường đời và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ: vừa thấm đượm cái bi, cái bất hạnh trong niềm riêng của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước.

   Với chất thơ bình dị, dễ đọc, dễ nhớ và đậm chất nhân văn Tú Xương đã khắc họa nên hình ảnh người vợ chịu thương chịu khó của mình trong mối tương quan với chồng, con. Đó cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà ông dành cho những người chồng, người cha còn “bạc” với người vợ đầu gối tay ấp của mình bằng chất liệu trào phúng đặc trưng.

icon-date
Xuất bản : 01/09/2021 - Cập nhật : 11/09/2021