logo

Soạn bài: Một thời đại trong thi ca (siêu ngắn)

Mời các bạn đón đọc bản Soạn bài Một thời đại trong thi ca siêu ngắn gọn, đây là phiên bản soạn văn 11 siêu ngắn được các thầy cô biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh tiếp cận bài học một cách dễ dàng nhất.


Soạn bài: Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)- Bản 1


Bố cục

Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần thơ mới.

- Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và thơ mới; cảm xúc chủ đạo của thơ mới.

- Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của thơ mới.


Nội dung chính:

Một thời đại trong thi ca thể hiện rõ quan niệm của Hoài Thanh về "tinh thần thơ mới" trong ý nghĩa văn chương và xã hội.

Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

- Cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới:

  + Ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không hoàn toàn rạch ròi.

  + Thơ mới và thơ cũ đều có cả bài hay và bài dở.

- Theo tác giả, cách nhận diện thơ mới và thơ cũ như sau:

  + Không dựa trên bài dở mà phải “sánh bài hay với bài hay”.

  + Phải “nhìn vào đại thể”.

Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam:

- ″chữ tôi” với một quan niệm cá nhân, một quan niệm chưa từng có từ trước đó. Trước đây ″chữ tôi” phải ẩn mình sau chữ ta, giờ đây nó được thể hiện theo nghĩa tuyệt đối của nó.

- ″chữ tôi” cũng nói lên bi kịch trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.

- Họ đi tìm lối thoát bằng cách gửi cả tình yêu vào tiếng Việt.

Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

Chữ “tôi”, với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại đáng thương và … tội nghiệp vì:

- Cái tôi không có được cốt cách ngang tàng, tự trọng thuở trước mà thể hiện tấn bi kịch đang diễn ra trong tâm lí thế hệ trẻ đương thời, đó là họ thiếu một lòng tin đầy đủ giữa bối cảnh tăm tối của nước nhà.

- Thơ mới đào sâu vào cái tôi cá nhân nhưng tuyệt vọng, buồn thảm và cô đơn.

Câu 4 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

- Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách bằng tình yêu tiếng Việt, bằng sự trở về với “di sản tinh thần của cha ông”, với “nguồn sống dồi dào mạnh mẽ trong ca dao”. Họ tự an ủi tiếng Việt còn thì dân tộc còn để rồi tìm thấy chút niềm hi vọng trong nỗi tuyệt vọng tận sâu thẳm tâm hồn.

Câu 5 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi:

- Quan điểm tiến bộ, hệ thống lập luận thuyết phục, mạch lạc, hấp dẫn: từ khái quát đến cụ thể, từ xưa đến nay, từ xa đến gần. Lập luận luôn gắn với những nhận định hấp dẫn, có sự so sánh giữa thơ mới và thơ cũ một cách biện chứng.

- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch luận lí sắc sảo và cảm xúc, tình cảm chân thành.

- Cách dẫn dắt tinh tế, uyển chuyển; diễn đạt giàu hình ảnh, ngôn ngữ cô đọng.


Luyện tập

Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

- Chữ tôi: nghĩa tuyệt đối

+ Không có cá nhân chỉ có đoàn thể, lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.

+ Không tự xưng hoặc ẩn mình sau chữ ta.

- Chữ ta trong thơ cũ là cá nhân ý thức gắn với cộng đồng, đoàn thể (lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình).

+ Quan niệm cá nhân, gắn liền với cá nhân, cá thể.

+ Đi theo chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống chi bây giờ nó đến một mình.

+ Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện.

Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

Lòng yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện ở:

- Bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: “họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”

- Vì tiếng Việt là tiền đề của tâm hồn và bề dày lịch sử văn hóa dân tộc

- Trân trọng tinh thần giống nòi, tâm trạng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc.

Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2):

- Cái “Tôi” của các nhà thơ mới “đáng thương” và “tội nghiệp” vì nó đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh, bơ vơ, muốn thoát khỏi nhưng không được. Bởi họ là những thi nhân sống trong cuộc đời mong mỏi, tù túng của thân phận mất nước, mang trong mình cái cô đơn bé nhỏ.

- Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. 


Soạn bài: Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)- Bản 2


I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

- Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên: 15/7/1909 – 14/3/1982.

- Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm tham gia phong trào yêu nước. Ông viết văn từ những năm ngoài 20 tuổi.

- Nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.

- Tác phẩm sáng giá nhất: Thi nhân Việt Nam(1942).

- Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 2000.

2. Tác phẩm

Tiểu luận nghiên cứu phê bình phong trào thơ mới: Một thời đại trong thi ca.

- Đặt ở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam.

- Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận.


II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

- Theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới là:

    + Ranh giới giữa cái mới và cái cũ rạch ròi, dễ nhận ra.

    + Cả thơ mới và thơ cũ đều có cái hay và cái dở của nhau.

- Cách nhận diện của tác giả:

    + Không thể căn cứ vào bài dở để so sánh và phải so sánh bài hay với bày hay.

    + ″...Muốn rõ đặc sắc của mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.

Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Điều cốt lõi mà nhà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ là:

    + ″chữ tôi” với một quan niệm cá nhân, một quan niệm chưa từng có từ trước đó. Trước đây ″chữ tôi” phải ẩn mình sau chữ ta, giờ đây nó được thể hiện theo nghĩa tuyệt đối của nó.

    + ″chữ tôi” cũng nói lên bi kịch trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.

    + Họ đi tìm lối thoát bằng cách gửi cả tình yêu vào tiếng Việt.

Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Tác giả nói ″ chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó” lại ″đáng thương” và …”tội nghiệp” vì: nó đã đem lại cho tâm hồn người nghệ sĩ sự buồn bã, cô đơn, hiu quạnh không thể nào thoát ra được. Hơn nữa, nó lại sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đang chìm trong bóng đêm của sự xâm lăng -> tội nghiệp.

Câu 4 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Các nhà thơ lãng mạn cũng như ″người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách: họ đi tìm lối thoát bằng cách gửi cả tình yêu vào tiếng Việt.

Câu 5 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi:

- Cách đặt vấn đề ngắn gọn, dễ hiểu.

- Bài viết có lập luận sức mang thuyết phục cao, luận điểm có tính khái quát, minh chứng cụ thể.

- Bài viết có tầm nhìn bao quát về ″cái tôi”, ″cái ta”, có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách đơn giản một chiều.

- Cách viết giàu hình ảnh, mềm mại, gây hứng thú ở người đọc.


Luyện tập

Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Sự khác biệt cơ bản giữa ″chữ tôi” thơ mới và chữ ta thơ cũ:

Cái ta Cái tôi

- Nói lên những suy tư, những cảm xúc chung của cả cộng đồng, loại người, lớp người, kiểu người.

- Cái tôi nếu có cũng nấp dưới bóng cái ta chung ấy.

- Đứng một mình

- Nó đã tự bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay bên trong bản thể của nó.

Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Lòng yêu nước của các nhà thơ mới:

- Tích cực tham gia phong trào cách mạng yêu nước.

- Gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tiếng Việt.

- Họ tin rằng vận mệnh dân tộc gắn với vận mệnh tiếng Việt đồng thời qua thơ mình, họ muốn làm cho tiếng Việt giàu đẹp hơn.

Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Qua bài tiểu luận, chúng ta thấy được:

    + Tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hệ thanh niên đương thời.

    + Tấm lòng sâu nặng với non sông nên họ gửi vào trong tình yêu tiếng Việt.


Soạn bài: Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)- Bản 3


Bố cục

3 phần

- Phần 1 (Từ đầu đến "Nhìn vào cái đại thể"): Chỉ ra nguyên tắc giúp chúng ta nhận diện và xác định tinh thần của thơ Mới.

- Phần 2 (Tiếp đến "Hồn ta cùng Huy Cận"): Khẳng định cốt lõi làm nên tinh thần thơ mới đó chính là cái "tôi".

- Phần 3 (Còn lại): Sự vận động của cái "tôi" trong thơ Mới và việc giải quyết bi kịch thời đại của nó.


Nội dung bài học

- Nội dung:

    + Cốt lõi tinh thần của thơ Mới: Cái "tôi".

    + Bi kịch cái "tôi" trong thời đại bấy giờ.

    + Đánh giá được ý nghĩa văn chương và xã hội của thơ Mới.

- Nghệ thuật:

    + Kết hợp hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.

    + Hệ thống luận điểm khoa học, lập luận chặt chẽ, logic.

    + Biện pháp nghệ thuật được vận dụng khéo léo tăng sức biểu đạt.


Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Cái khó trong việc tìm ra tinh thần Thơ mới: 2 nguyên nhân chủ yếu:

- Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở, cái kiệt xuất, cái tầm thường. Sự xáo trộn khiến cho việc nhận diện tinh thần thơ Mới khá khó khăn.

- Ranh giới thơ Mới - thơ cũ không rạch ròi, khó nhận ra: "Âu là ta cũng đành phải nhận ra rằng trời đất không phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ..."

Cách nhận diện của Hoài Thanh:

- Không nên căn cứ vào cục bộ và những cái hay, cái dở trong thơ Mới, thơ cũ: "Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải riêng thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy".

- Căn cứ phải tổng quan, có cái nhìn đại thể về cái hay, cái dở của thơ mỗi thời: "... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".

Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Điều cốt lõi mà thơ Mới đưa đến theo Hoài Thanh là: Tinh thần thơ Mới là chữ "tôi".

- Thơ cũ là chữ "ta", thơ Mới là chữ "tôi".

- Bản chất chữ "tôi":

    + Chữ "tôi" trước đây nếu có cũng phải ẩn mình, đứng sau chữ "ta".

    + Chữ "tôi" bây giờ là chữ "tôi" theo ý nghĩa tuyệt đối của nó và mang theo bi kịch ngầm của thanh niên thời đại đó.

    + Chữ "tôi" bùng nổ, trỗi dậy trong sự giải phóng ý thức cá nhân.

    + Hành trình mới: Chập chững, lạ lẫm được xem là đáng thương và tội nghiệp.

Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Chữ "tôi", với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại "đáng thương" và "tội nghiệp" vì:

- Cái "tôi" hiện tại nhỏ bé, bơ vơ, mất cốt cách hiên ngang, ngang tàng, ngạo nghễ như Lý Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.

- Cái "tôi" đang sống mòn mỏi, tù túng dưới thân phận mất nước, không được phép thể hiện hết cái "tôi" tiềm tàng trong mình.

- Cái "tôi" hiện tại rên rỉ, khổ sở:

    + Xuân Diệu đắm say để rồi say đắm vẫn bơ vơ.

    + Thế Lữ thoát lên tiên mà động tiên đã khép

    + Lưu Trọng Lư phiêu lưu trong tình trường lại gặp tình yêu không bền.

    + Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng rồi lại phải tỉnh trong điên cuồng.

- Cái "tôi" tìm cách thoát ly thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch thời đại.

→ Bi kịch có tính chất xã hội đang diễn ngấm ngầm phản chiếu tâm lý một thế hệ: Hy vọng rồi lại thất vọng.

Câu 4 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Các nhà thơ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách:

- Gửi tất cả lòng mình vào tiếng Việt. "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ buồn vui với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt".

- "Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua".

- Tin vào lời nói triết lý "Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn".

→ Đánh giá ý nghĩa văn chương và xã hội của tiếng Việt, là chỗ dựa tin cậy của tư tưởng nòi giống, của các thế hệ thơ.

Câu 5 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi:

- Kết hợp hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.

- Hệ thống luận điểm khoa học, lập luận chặt chẽ, logic.

- Biện pháp nghệ thuật được vận dụng khéo léo tăng sức biểu đạt.

- Ngôn ngữ độc đáo, đặc sắc, dung dị.

- Giọng văn tha thiết, trong sáng, gần gũi thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.


Luyện tập

Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Chữ "tôi" và chữ "ta" đều biểu hiện ý thức về bản thân nhưng khác nhau:

- Chữ "tôi": Nghĩa tuyệt đối:

    + Cá nhân tự ý thức về bản thân mình, bộc bạch những điều sâu kín bên trong con người mình.

    + Tự xưng, không còn ẩn mình sau chữ "ta".

- Chữ "ta":

    + Quan niệm cá nhân phải gắn với cộng đồng.

    + Suy tư, cảm xúc cũng là tiếng nói chung của cộng đồng.

Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Lòng yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện:

- Gửi tất cả lòng mình vào tiếng Việt. "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ buồn vui với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt".

- Khát vọng làm cho tiếng Việt giàu đẹp hơn.

- Trân trọng những giá trị tinh thần đã được tạo ra, tinh thần nòi giống dân tộc.

Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2):

Hiểu thêm về tâm hồn của các nhà thơ lãng mạn:

- Chữ "tôi", với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại "đáng thương" và "tội nghiệp". Tâm hồn bơ vơ, lạc lõng, khó thoát khỏi sự tù túng, chật hẹp. Họ cũng chính là những trí thức tiểu tư sản vẫn chưa được con đường cách mạng soi sáng hoặc chưa sẵn sàng dấn thân vào sự nghiệp cách mạng đầy chông gai.

- Dồn tất cả tình yêu, tâm tư, khát vọng vào tiếng Việt, nơi bộc lộ tình yêu nước, khát vọng một cách thầm kín.

→ Họ đều là những con người đáng quý, đáng trân trọng.

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021

Tham khảo các bài học khác