logo

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Hướng dẫn lập Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 ngắn gọn nhất. Tổng hợp loạt bài Sơ đồ tư duy Ngữ Văn 9 chi tiết, đầy đủ, ngắn gọn bám sát nội dung tác phẩm sách giáo khoa Ngữ văn 9.


Tóm tắt tác giả, tác phẩm trước khi lập Sơ đồ tư duy bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Đôi nét về tác giả Phạm Tiến Duật

- Phạm Tiến Duật (1941- 2007)

- Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ

- Sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

+ Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.

+ Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam

+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng tự hào.

+ Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật

+ 19-11-2007 , ông được chủ tịch nước Nghuyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng nhì

+ Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật

+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”…

- Phong cách sáng tác : thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát, tiêu biểu là bài “ Trường sơn Đông Trường Sơn Tây”

II. Khái quát Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Tìm hiểu chung

a. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”

b. Bố cục

- Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính

- Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

- Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe

- Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

c. Giá trị nội dung

Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.

d. Giá trị nghệ thuật

Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ một cách tự nhiên. Đặc biệt nhất là có chất liệu hiện thực vô cùng sinh động của chiến trường, những hình ảnh sáng tạo rất đời thường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính khẩu ngữ, ngang tàn và khỏe khoắn

2.  Phân tích chi tiết

a. Khổ 1+2 : Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính

- 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh

- 4 câu thơ tiếp theo:

+ Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” , ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”

⇒ tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài

+ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận

⇒ con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước

⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường.

⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu

b. Khổ 3+4: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

- 2 câu thơ đầu khổ 3+ 2 câu thơ đầu khổ 4:

+ Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”

+ Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu

- 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:

+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”

⇒ Thái độ lạc quan

+ Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh

⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng

c. Khổ 5+6: Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết

- 4 câu thơ khổ 5:

+ “Đã về đây họp thành tiểu đội” : Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”

+ “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết

- 2 câu thơ đầu khổ 6:

+ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên

+ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo

⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu

- 2 câu thơ cuối khổ 6:

+ Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường mới

+ Hình ảnh “trời xanh thêm” : ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình

d. Khổ 7: Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

- 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ

- 2 câu cuối

+ Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Lời khẳng định chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn

+ “ Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành, dũng cảm.


Cách vẽ sơ đồ tư duy môn văn đẹp và hiệu quả nhất

Để vẽ sơ đồ tư duy môn Văn hiệu quả, bạn cần chú ý các bước quan trọng sau:

- Tạo ý tưởng chính (ý tưởng trung tâm) cho bài

- Tạo các nhánh cho bản đồ tư duy

- Thêm các hình ảnh trong sơ đồ

Mindmap như một phương thức trực quan và hiệu quả trong việc ghi nhớ những tác phẩm, những ý chính trong văn học, chúng được dùng để thay thế rất hiệu quả cho những con chữ dài lê thê trong Văn học

Ngoài ra, bạn cũng nên thêm thắt những hình ảnh gợi nhớ trong Mindmap môn Văn. Khi sử dụng hình ảnh có tác dụng kích thích thị giác khiến não bộ tiếp nhận thông tin nhanh hơn, qua đó giúp bạn tiết kiệm thời gian học bài mà vẫn không quên các nội dung chính cần nhớ.

Sau khi tìm hiểu chi tiết về đoạn trích, các em cùng đến với Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính đã được Top lời giải tổng hợp và biên soạn sau đây nhé:


Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 1

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 ngắn gọn nhất

Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 2

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 ngắn gọn nhất (ảnh 2)

Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 3

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 ngắn gọn nhất (ảnh 3)

Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 4

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 5

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 6

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Sơ đồ tư duy Bài thơ tiểu đội xe không kính - Mẫu số 7

Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Bài văn mẫu Phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính


Mẫu số 1

      Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.

      Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970, Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo:

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

      Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.

      Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:

Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng

      Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.

Nhìn đất nhìn trời, người lính lái xe còn:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái

      Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ, xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, Còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm. “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.

      Nếu đoạn thơ trên nói đến những hình ảnh đẹp thì đoạn thơ tiếp theo sau lại nói về những vất vả, thiếu thốn của người lính lái xe. Song, dù ở bất kì hoàn cảnh nào thì các anh vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, hóm hỉnh đầy chất lính:

Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

      Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

      Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng

      Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

      Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.

      Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

      Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.

      Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.


Mẫu số 2

Trong những năm tháng cam go quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ tuyến đường Trường Sơn đầy mưa bom, bão đạn, nhà thơ Phạm Tiến Duật đồng thời cũng là anh bộ đội đã viết những bài thơ ca ngợi người lính trên chiến trường với một phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những chiếc xe trên tuyến đường Trường Sơn đảm nhận vai trò quan trọng trong việc chi viện cho tiền tuyến miền Nam, nhưng điểm đặc biệt của những chiếc xe trong thời kỳ này chính là hình dáng vô cùng đặc biệt: những chiếc xe không kính.

Hình tượng thơ thường gắn liền với cái đẹp, vẻ trau chuốt, sự kỳ vĩ. Theo lẽ thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng chính xuyên suốt bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng tạo nên ấn tượng mạnh, là tiền đề để làm nổi bật chất dũng cảm, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Hình tượng ấy đã gợi lên những nguy hiểm cận kề tưởng chừng như cái chết, sự hy sinh đã ở đâu đó rất gần người lính, thế nhưng Phạm Tiến Duật diễn tả nó với lời thơ rất bình dị:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”

Cấu trúc phủ định của phủ định như khẳng định thực tại ác liệt của cuộc chiến tranh và nỗi thiếu thốn đủ bề của những người chiến sĩ. “Bom giât, bom rung” làm kính “vỡ đi rồi”. Câu thơ mang đậm vẻ tiếc nuối, biện pháp tu từ im lặng cuối câu như kéo dài sự nuối tiếc ấy thêm nhiều lần nữa.

Khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính chính là khắc họa gián tiếp hình tượng những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên cường, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn với niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, các anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện lời kêu gọi “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Câu thơ chuyển sang nhịp điệu thanh thản, tự tin:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những từ ngữ chọn lọc “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận. Tư thế hiên ngang, lòng tự tin ấy còn được thể hiện ở chỗ bất chấp “bom giật, bom rung” của kẻ thù, vẫn cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, những nét đẹp lãng mạn mặc dù cái chết vẫn đang luẩn quẩn, rình rập đâu đó quanh họ. Hình ảnh thơ thật đẹp làm sao:

“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Những thiếu thốn, khó khăn vật chất lại càng không ngăn đường con đường anh đi tới:

“Không có kính, ừ thì có bụi”
“Không có kính, ừ thì ướt áo”

Cấu trúc “Không có kính, ừ thì…” chính là thái độ chấp nhận hay nói chính xác hơn là thái độ ngang tàng không đoái hoài, không quan tâm đến những điều ấy. Câu thơ mộc mạc như lời nói thường ngày đầy dí dỏm, tinh nghịch ấy đã giúp ta hiểu được, cảm nhận được những khó khăn mà người chiến sĩ giải phóng quân phải chịu dừng và chấp nhận.

Cách giải quyết khó khăn của các anh cũng thật bất ngờ, thú vị:

“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.

Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui vẻ thể hiện niềm lạc quan, yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng, hoài bão, ước mơ. Tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cạnh anh còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “Tiểu đội xe không kính” được hình thành, bao gồm những con người tứ xứ, chung lý tưởng gặp nhau thành bạn bè:

“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

Thì ra những chiếc kính vỡ cũng có được cái lợi của nó, không phải mất thời gian để kéo kính, chỉ cần đưa tay qua ô cửa là có thể “bắt tay” người đồng chí, đồng đội của mình. Không chỉ vậy, các anh còn cùng chung niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng đội, đồng chí:

“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”

Một định nghĩa mới mẻ về gia đình được Phạm Tiến Duật đặt ra, đơn giản thôi nhưng lại đầm ấm tình đồng chí: “chung bát đũa”. Đọc những câu thơ này làm ta nhớ lại âm điệu sôi nổi vui tươi của ca khúc “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” với những ca từ chân chất, đậm tình: “Năm anh em mỗi đứa một nơi, đã lên xe là cùng một hướng…”. Họ vẫn cùng nhau cười đùa sảng khoái, tranh thủ mắc chiếc võng chông chênh tranh thủ giấc ngủ vội vàng dẫu biết rằng mai đây trong số họ sẽ khó có thể hội ngộ trong những bữa cơm giữa đường xe chạy thế này. Những khó khăn ấy lại tiếp tục được tác giả khắc họa với những khó khăn gian khổ nhiều hơn, chiến tranh càng ác liệt hơn:

“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”

Thế nhưng, dù cho thực tại khó khăn, cuộc chiến tranh càn quét của kẻ thù có ác liệt đến mấy, thì ý chí chiến đấu quên mình vì tiền tuyến của các anh bộ đội vẫn không hề nao núng: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Chỉ cần trong xe có một trái tim” đã thay cho tấm lòng của tác giả phản ánh được lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Trái tim đó chính là tình yêu, là tuổi trẻ, là lý tưởng và nhiệt huyết của người chiến sĩ lái xe, vượt chặng đường dài để nối liền hai miền Tổ quốc.

Bằng những hình ảnh mang tính tạo hình, nhiều lần sử dụng cấu trúc phủ định với âm điệu trẻ trung, vui tươi, lời thơ như tiếng nói đời thường, Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh bộ đội lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy cam go, thử thách. Một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

Hình ảnh những chiếc xe không kính và hình tượng người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” dẫu đậm chất thơ như chính tên tác phẩm nhưng cũng không giấu được những vất vả, hiểm nguy mà những người chiến sĩ phải trân mình chịu đựng. Đó là hình hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong những tháng ngày hoa lửa trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, hào hùng.

Trên đây là Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính do Top lời giải tổng hợp và biên soạn. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em học tốt bộ môn Văn. Tham khảo thêm nhiều bài Văn mẫu 9 được cập nhật liên tục tại toploigiai.vn em nhé.

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 23/06/2022