logo

Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải

icon_facebook

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải.

Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải ngắn gọn, hay nhất

Dàn ý phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài

a. Số phận của nhân vật trung tâm - chị Đào:

      - Ngoại hình xấu xí "hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi", dáng "sồ sề", chân ngắn.

      - Lấy chồng sớm, chồng bỏ đi biền biệt, nghiện rượu chè, cờ bạc, rồi chết sớm, đứa con trai hai tuổi thế nhưng nó cũng bỏ chị mà đi nốt vì bệnh sài, chị trở thành người đàn bà cô độc, không nhà không cửa, bơ vơ trên đời với nhiều nỗi đau khổ.

      - Chị sống với kiếp lênh đênh "đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường" khốn khổ, thiếu thốn với "Mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông đã bạc", chân đi khắp chốn.

      - Muốn chết cho đời hết nặng nhọc, khốn khổ ấy thế nhưng "đời còn dài nên phải sống".

=> Chị Đào là một người phụ nữ kiên cường, mạnh mẽ và có sức sống tiềm tàng mãnh liệt, trải qua nhiều bất hạnh thế nhưng chị chưa từng buông xuôi cuộc đời mình, vẫn miệt mài chăm chỉ lao động để nuôi sống bản thân.

      - Những bất hạnh, mất mát và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần đã khiến chị có cái vẻ "táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình".

b. Cánh cửa cuộc đời mở ra khi chị Đào lên nông trường Điện Biên:

      - Chị Đào không còn phải chịu cảnh lênh đênh nay đây mai đó, bốn bể là nhà, chị được hòa vào cái niềm vui lao động, phấn đấu và thi đua, tâm hồn chị đã bứt đi được cái cảm giác lạc lõng và cô độc.

      - Thân thiết được với Huân một anh chàng kém chị 25 tuổi, đẹp trai nhất nông trường. Sự khỏe mạnh, vui tính, khéo léo, đa tài của Huân đã thắp lên cho cuộc đời chị nhiều niềm vui trong lao động.

      - Chị vẫn mang trong mình nhiều mặc cảm tự ti cái nỗi buồn lòng của một người đàn bà xấu, sắp qua tuổi xuân thì, mà lại cứ độc lai độc vãng, không chồng con, không được ai ngó ngàng yêu thương.

       Không khuất phục trước số phận, có niềm tin mãnh liệt vào tương lai:

      + Chị mạnh mẽ bác lại và dường rất bình thản trước cuộc đời lắm chông gai của mình, không buồn nhún nhường, chị tự tin mà thành thơ, thành vần rằng "Huê thơm bán một đồng mười. Huệ tàn nhị giữa giá đôi lạng vàng".

      + Có ý thức về cái giá trị của mình, có lòng tự tôn của một người đàn bà dù không đẹp nhưng tâm hồn đẹp, hăng say lao động, chăm chỉ cần cù hơn bất cứ ai.

      + Khao khát hy vọng về một cuộc sống hạnh phúc, được yêu thương, đùm bọc.

=> Biểu hiện rõ nét nhất về sự hồi sinh sự sống trong tâm hồn chị Đào.

c. Bước ngoặt trong cuộc đời chị Đào:

      - Có một người đàn ông mới gặp vài lần viết thư ngỏ lời với chị bằng những lời lẽ mà chị cho là "táo bạo", là "coi thường". Những lá thư ngỏ lời ấy đã khiến chị vui một "nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi...".

      - Chị xúc động và hạnh phúc vì cái chuyện vui đột ngột đến trong đời, và tâm hồn chị đã bắt đầu "thức tỉnh những nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm trời nay".

      - Tưởng đến cảnh chung đụng với con riêng của chồng, những tính toán về cuộc sống sau kết hôn,...

      - Chị có một cái nhìn rất thiện cảm với mối tình của Huân và Duệ, chị thấy họ thật xứng đôi phải lứa, và chị ra sức vun vén, đắp đầy cho cái tình cảm ngỡ suôn sẻ mà nhiều chông gai.

      - Chị cảm thấy vừa lòng với ông thiếu úy, và cuộc đời họ đã gắn với nhau khi vào vụ gieo ngô, chị đã có một gia đình mới, một bàn tay đàn ông che chở, yêu thương, chị lấy đó là hạnh phúc và hợp tình.

d. Tư tưởng truyện:

      - Sự hồi sinh của con người: Một người phụ nữ kém sắc, góa chồng, sắp hết tuổi xuân như chị Đào, đến anh Huân với "những khát khao, những ước mơ đốt cháy trái tim", đến cả anh thiếu úy Dịu góa vợ, có đứa con riêng, đã lớn tuổi nhưng vẫn dám mạnh mẽ viết thư ngỏ lời "táo bạo" cho chị Đào nhằm vun vén một hạnh phúc mới.

      - Sự sống hồi sinh của đất nước trên mảnh đất Điện Biên: Mấy năm trước còn là bãi chiến trường hoang lạnh đầy mảnh vỏ bom đạn, dây thép gai, hầm hào,... Nay thay vào đó là "khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng đấm tay thùm thụp", cùng với những cánh đồng lạc, ngô tươi tốt, những con người lao động miệt mài, hăng say.

=> Tất cả những biểu hiện rõ rệt ấy đã cho thấy sự hồi sinh mạnh mẽ, thay da đổi thịt của cả đất nước và con người sau mấy chục năm trời nghiệt ngã và thực sự "cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi".

3. Kết bài

Nêu cảm nhận.


Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải - Mẫu số 1

      Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc đứng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong không khí sôi nổi lao động và kiến thiết đất nước, nhiều thanh niên đã tình nguyện rời xa quê hương đi đến những vùng đất mới bước vào công cuộc khẩn hoang canh tác đầy vất vả nhưng vinh quang, biến những mảnh đất khô cằn, bị bom đạn tàn phá suốt mấy chục năm thành những khu nông trường màu mỡ góp phần dựng xây kinh tế nước nhà. Hòa chung với không khí xung phong ấy, giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ cũng nảy ra những quan niệm mới trong sáng tác, phải tích cực xung phong đi đến những vùng đất mới của đất nước để khai thác được hết những vẻ đẹp của quê hương, của con người trong thời khắc mới của Tổ quốc. Chính vì thế Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân và Nguyễn Khải đã cùng nhau mạnh mẽ tiến bước về nông trường Điện Biên. Sau chuyến đi thực tế ấy mỗi tác giả đều có cho riêng mình những trải nghiệm đáng giá và những tác phẩm sâu sắc. Trong khi Nguyễn Huy Tưởng cho ra đời nhiều tiểu thuyết, Nguyễn Tuân có riêng mình tập tùy bút Sông Đà, thì Nguyễn Khải cũng có truyện ngắn Mùa lạc. Dù rằng cái thời khắc mang tính thời sự của đất nước đã qua được mấy chục năm, thế nhưng những nội dung nhân văn trong tác phẩm này của Nguyễn Khải vẫn tồn tại và sống mãi trong lòng người đọc.

      Mùa lạc không phải là một truyện ngắn phức tạp, mà chủ yếu tập trung vào đời sống của con người sau ngày kháng chiến chống Pháp, những đau thương tạm qua đi, nhân dân Việt Nam bước vào một khởi đầu mới, nhiều khó khăn, nhưng cũng nhiều hy vọng, bỏ lại sau lưng nhiều đau thương, mất mát. Câu chuyện tập trung vào nhân vật Đào, một người đàn bà có số phận bất hạnh, chông chênh cũng như nhiều kiếp đàn bà của thế kỷ trước. Một trong những cái bất hạnh lớn nhất của đời chị ấy là cái ngoại hình kém duyên "hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi", khuôn mặt không ưa nhìn, dáng vóc của chị cũng không lấy làm dịu dàng mấy với một cái dáng "sồ sề", chân ngắn. Thế nhưng chị Đào cũng đã từng có được chồng, chị đã nên vợ nên chồng với người ta từ thuở 17, bẻ gãy sừng trâu, cái thuở còn ngô nghê hồn nhiên. Cứ nói rằng hồng nhan bạc mệnh, nhưng ít nhất như vậy chị cũng được vui vì cái nhan sắc của mình, còn đằng này chị đã buồn vì bản thân kém xinh, lại khốn khổ với một người chồng bỏ đi biền biệt, nghiện rượu chè, cờ bạc, khiến đời chồng con của chị lận đận. Rồi cái người chồng ấy cũng ra đi sớm, để lại cho chị đứa con trai hai tuổi thế nhưng nó cũng bỏ chị mà đi nốt vì bệnh sài, chị trở thành người đàn bà cô độc, không nhà không cửa, bơ vơ trên đời với nhiều nỗi đau khổ. Chị sống với kiếp lênh đênh "đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường" khốn khổ, thiếu thốn với "Mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông đã bạc", đời người đàn bà vốn ưng được êm đềm, lặng gió thế mà với chị "bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào".Có biết bao nỗi cay đắng, tủi nhục đã trùm lên cuộc đời của người đàn bà này, để rồi nó hiện hẳn ra cái ngoại hình của chị "Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều". Rồi những lúc đau ốm chị lại nương nhờ người này người kia một chút để vượt qua, chị Đào đôi lúc đã nghĩ muốn về quê, nhưng quê chị làm gì có ai nữa, rồi muốn chết cho đời hết nặng nhọc, khốn khổ ấy thế nhưng "đời còn dài nên phải sống". Có thể nhận ra rằng chị Đào là một người phụ nữ thật kiên cường, mạnh mẽ và có sức sống tiềm tàng mãnh liệt đến nhường nào, chị đã trải qua nhiều bất hạnh thế nhưng chị chưa từng buông xuôi cuộc đời mình, vẫn miệt mài chăm chỉ lao động để nuôi sống bản thân. Nhưng đồng thời những bất hạnh, mất mát và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần đã khiến chị có cái vẻ "táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình". Phải hờn trách chứ, bởi đời chị nó khổ quá, mà chị thì có tội tình chi.

      Những tưởng cuộc đời chị Đào sẽ mãi phải chịu cảnh lênh đênh, bốn bể là nhà thì "tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua" đã đưa cuộc đời chị đi vào một bước ngoặt khác, tươi sáng và nhiều hứa hẹn. Ở nông trường Điện Biên, chị Đào không còn phải chịu cảnh lênh đênh nay đây mai đó, bốn bể là nhà, chị được hòa vào cái niềm vui lao động, phấn đấu và thi đua, tâm hồn chị đã bứt đi được cái cảm giác lạc lõng và cô độc. Bởi lẽ lúc đầu dù chị chưa quen thân với tất cả mọi người, nhưng chí ít chị cũng thân thiết được với Huân một anh chàng kém chị 25 tuổi, đẹp trai nhất nông trường. Sự khỏe mạnh, vui tính, khéo léo, đa tài của Huân đã thắp lên cho cuộc đời chị nhiều niềm vui trong lao động, bởi lẽ ít ra chị cũng có một người cùng lao động, cùng nói chuyện và cũng là để thi đua. Tuy nhiên, chị Đào vẫn chưa mở khóa được tất cả những mặc cảm tự ti trong lòng mình, cái nỗi buồn lòng của một người đàn bà xấu, sắp qua tuổi xuân thì, mà lại cứ độc lai độc vãng, không chồng con, không được ai ngó ngàng yêu thương. Thành thử ra khi phải nghe cái sự gán ghép kỳ quặc giữa chị và Huân, của anh chàng tên Lâm nó đã vô tình khía mạnh vào nỗi mặc cảm, buồn lòng mà chị cất giữ bấy lâu. Thế nhưng Đào không phải là một người phụ nữ dễ xấu hổ, hay khuất phục trước những lời trêu chọc tinh quái của người khác, chị mạnh mẽ bác lại và dường rất bình thản trước cuộc đời lắm chông gai của mình. Lúc đầu chị thành thật giãi bày "Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có bố cháu dưới xuôi rồi, mai nay bố cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy". Nhưng sau nhiều lần đối mặt với cái trò đùa độc ác thích xoáy vào nỗi bất hạnh của người khác chị đã không buồn nhún nhường, thành thật mà làm gì nữa, chị đã 28 tuổi, chứ chẳng phải bé bỏng để người ta bắt nạt mãi thế chị tự tin mà thành thơ, thành vần rằng "Huê thơm bán một đồng mười. Huệ tàn nhị giữa giá đôi lạng vàng". Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ". Đến đây người ta bắt đầu nhận ra, chị Đào không hẳn đã tắt hẳn những hy vọng về một cuộc đời được yêu thương, chẳng phải chị vẫn rất có ý thức về cái giá trị của mình hay sao. Chị vẫn có lòng tự tôn của một người đàn bà dù không đẹp nhưng tâm hồn đẹp, hăng say lao động, chăm chỉ cần cù hơn bất cứ ai. Và những lúc nhìn thấy cái vẻ trẻ trung khỏe khoắn của Huân, một chàng trai như ánh dương giữa cuộc đời, thì cái niềm khao khát hy vọng về một cuộc sống hạnh phúc, được yêu thương, đùm bọc nó lại âm ỉ cháy trong trái tim nhiều thương tổn. Chị "muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác". Đó là một trong những biểu hiện rõ nét nhất về sự hồi sinh sự sống trong tâm hồn người đàn bà này, bởi lẽ rằng nếu người ta đã không tha thiết gì thì chắc người ta đã chẳng phải hờn giận, ghen tỵ, hay có những lúc đanh đá, đấu tranh cho bản thân mình, mà chỉ việc lầm lũi cho qua ngày đoạn tháng như cô Mị trong Vợ chồng A Phủ. Và cũng có những lúc "chị lại bừng bừng nghĩ tới một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì đó chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp ló ở phía trước". Những hy vọng ấp ủ ấy chắc chắn sẽ nuôi dưỡng tâm hồn chị Đào và sẽ dẫn chị đến những hạnh phúc chị xứng có được.

      Và thật may rằng cuộc đời vẫn không bạc đãi chị Đào, đã cho chị những tia sáng, những niềm hy vọng mới mẻ, khi có một người đàn ông mới gặp vài lần viết thư ngỏ lời với chị bằng những lời lẽ mà chị cho là "táo bạo", là "coi thường". Nhưng thực tế đó là những điều chị dối lòng, bởi chị bất ngờ và "bàng hoàng" trước cái cơ hội được yêu thương săn sóc tự dưng tràn đến cuộc đời chị trong hoàn cảnh này, giữa cái cuộc đời hạn hán vì thiếu thốn tình cảm và mất mát quá nhiều. Và sự thực là chỉ một lá thư ngỏ lời ấy đã khiến chị vui một "nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra". Chị xúc động và hạnh phúc vì cái chuyện vui đột ngột đến trong đời, và tâm hồn chị đã bắt đầu "thức tỉnh những nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm trời nay". Thậm chí chưa có gì xác định nhưng chị đã bắt đầu tưởng đến cảnh chung đụng với con riêng của chồng, những tính toán về cuộc sống sau kết hôn,... Đó là những diễn tiến tâm lý thật bình thường của con người, hy vọng và vui sướng dễ dẫn người ta đi xa trong tưởng tượng, và tâm hồn chị Đào đã thực sự sống lại, tươi sáng như cái cách mà chị nghĩ về tương lai.

      Đôi lúc người ta hỏi chị Đào có yêu anh Huân không, thiết nghĩ rằng chị Đào mơ ước được người như anh Huân, chị thích anh, nhưng chị cũng ý thức được rõ khoảng cách giữa hai người, đồng thời chị cũng hài lòng với những gì mình đang có được. Thế nên chị chỉ dừng lại ở cái việc ngưỡng mộ và thân thiết với Huân, xem Huân là ánh mặt trời rọi sáng những tối tăm trong lòng chị, cũng là người thấu hiểu chị. Chính vậy nên chị có một cái nhìn rất thiện cảm với mối tình của Huân và Duệ, chị thấy họ thật xứng đôi phải lứa, và chị ra sức vun vén, đắp đầy cho cái tình cảm ngỡ suôn sẻ mà nhiều chông gai. Bởi lẽ người trẻ, ít trải đời họ thường có những cái suy nghĩ vẩn vơ, rụt rè và sợ hãi trước hạnh phúc, trước tương lai, đặc biệt ở đây là cô Duệ, một cô gái trẻ tuổi, mong manh. Còn chị chị cảm thấy vừa lòng với ông thiếu úy, và cuộc đời họ đã gắn với nhau khi vào vụ gieo ngô, chị đã có một gia đình mới, một bàn tay đàn ông che chở, yêu thương, chị lấy đó là hạnh phúc và hợp tình. Và hạnh phúc của chị cũng nhận được những lời vun đắp từ những anh em trên công trường, những con người từ nhiều miền của Tổ quốc mà mới chỉ nửa năm trước chị còn xa lạ.

      Tư tưởng chính mà Nguyễn Khải muốn truyền đạt thông qua truyện ngắn Mùa lạc ấy chính là sự hồi sinh của con người, của đất nước. Sau giải phóng miền Bắc, có nhiều cuộc đời đã theo đổi theo những chiều hướng tích cực, sự vận động diễn ra một cách âm thầm, âm ỉ trong trái tim mỗi người. Họ sống với nhiều hy vọng về một tương lai tươi sáng, những khát khao hạnh phúc sau những năm tháng đau thương của đất nước và của cả cuộc đời mình. Từ một người phụ nữ kém sắc, góa chồng, sắp hết tuổi xuân, đến anh Huân với "những khát khao, những ước mơ đốt cháy trái tim", đến cả anh thiếu úy Dịu góa vợ, có đứa con riêng, đã lớn tuổi nhưng vẫn dám mạnh mẽ viết thư ngỏ lời "táo bạo" cho chị Đào nhằm vun vén một hạnh phúc mới. Rồi rộng hơn nữa người ta còn thấy sự sống hồi sinh trên mảnh đất Điện Biên mà chỉ mấy năm trước còn là bãi chiến trường hoang lạnh đầy mảnh vỏ bom đạn, dây thép gai, hầm hào,... thì nay thay vào đó là "khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng đấm tay thùm thụp", cùng với những cánh đồng lạc, ngô tươi tốt, những con người lao động miệt mài, hăng say. Người ta đã nhanh chóng đặt lại đau thương, mất mát từ chiến tranh vào quá khứ để dựng lại cuộc sống mới khi mà "Trong những buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả lựu đạn cối tiện đầu làm bình hoa, một ống khối thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng mượt",... Tất cả những biểu hiện rõ rệt ấy đã cho thấy sự hồi sinh mạnh mẽ, thay da đổi thịt của cả đất nước và con người sau mấy chục năm trời nghiệt ngã và thực sự "cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi".

      Truyện ngắn Mùa lạc là một câu chuyện ngắn cấu tứ đơn giản, viết về cuộc sống của nhiều số phận con người sau chiến tranh, dẫu chịu nhiều đau thương vất cả, thế nhưng trong trái tim họ vẫn tràn trề một sức sống tiềm tàng mãnh liệt và hồi sinh một cách mạnh mẽ sau những đổi thay của cuộc sống. Từ đó bộc lộ một cảm hứng mới trong văn học Việt Nam giai đoạn những năm sau kháng chiến chống Pháp ấy là sự hồi sinh của đất nước, con người, với một niềm tin tích cực rằng chỉ cần cố gắng, nỗ lực vượt lên trên số phận thì cả con người và cả đất nước chắc chắn sẽ được hưởng những hạnh phúc, những thành tựu mà chúng ta hằng mong ước.


Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải - Mẫu số 2

      Trong văn học, có những nhà văn, nhà thơ chiếm lĩnh đước tâm hồn độc giả ngay từ sáng tác đầu tiên. Nhưng điều đó rất hiếm. Nguyễn Khải không phải là tác giả nhanh chóng khẳng định được mình trên văn đàn. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1950 song chưa thành công; càng về sau, văn phẩm của ông càng giữ được chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc. Khác với các nhà văn đương thời, Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén và năng lực khám phá với các vấn đề xã hội mà ông còn đi sâu miêu tả sự biến chuyển của cuộc sống, của con người. Qua việc đặc tả sự biến đổi về số phận và tâm lí nhân vật Đào (Mùa lạc – 1960), Nguyền Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng chủ đạo thiên truyện: cảm hứng về sự hồi sinh cuộc sống sau chiến tranh..

      Truyện ngắn “Mùa lạc" phản ánh công cuộc đổi mới xã hội ở vùng đất sau chiến tranh, phản ánh cảnh sống con người trên nông trường Điện Biên. Đào cùng là một trong những người gắn bó với cuộc sống nơi đây. Chính mảnh đất này đã góp phần xây dựng cho cô một sức sống mãnh liệt, một cuộc đời mới.

      "Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết âm lịch chừng nửa tháng”. Trước khi lên nông trường, Đào "gặp nhiều điều đau buồn". Cô "lấy chồng từ năm 17 tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới về quê. Ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Với người phụ nữ trẻ, mất chồng là nồi bất hạnh cùng cực, nhưng "mấy tháng sau đứa con lên sởi bỏ đi để chị lại một mình" thì không còn gì có thể đau khổ hơn thế. Đào phải bôn ba kiếm sống với nỗi đau chưa tắt, với cô quạnh bao trùm: "đòn gánh trên vai, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt.,.”, nơi nào cũng có dấu chân cô độc của chị. Với Đào, khó khăn về vật chất đã khổ (Mùa hè vài cái áo nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngấn bạc…) nhưng sự thiếu thốn trong tâm hồn còn đáng sợ hơn nhiều. Nhìn "ngọn đèn dầu" chị tủi thân "sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm". Có thể nói Đào có một số phận bất hạnh. Những bi thương, khốn khổ hiện hình trên hình thức của chị: "Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều". Chính số phận bất hạnh, bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời đã tạo nên cho chị một tâm lí "Muốn chết, nhưng đời còn dài nên phải sống", một tính cách "táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, hờn giận cho thân mình".

      Cuộc sống của Đào khi chưa lên Điện Biên không được Nguyễn Khải miêu tả chi tiết. Nhưng dưới ngòi bút đầy cảm thông, Đào hiện ra với bao nhiêu xót thương. Tuy nhiên, nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói bởi văn học xưa nay đã đề cập đến nhiều nỗi đau nhân thế. Giả sử Đào hiện diện cho con người chỉ biết đến đau khổ thì sẽ chìm lấp giữa trăm nghìn hình tượng khác. Ở Đào, tuy trải qua nhiều tháng ngày cơ cực, nhưng trong cô vẫn le lói mong muốn được sống. "Muốn chết" nhưng lại tiếc "cuộc đời còn dài". Chính vẻ đẹp quả cảm  kiên nghị đã làm hình tượng nhân vật Đào sống mãi. Đã không thể chết thì quyết sống cho dù sống trong nỗi tủi nhục của con người biết phận mình trăm đường thua thiệt.

      Đào lên nông trường "với tâm lí con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã chịu". Ở nông trường, Đào hăng hái lao động bởi cô hiểu chỉ có lao động mới tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Cô thi đua với những người khỏe mạnh như Huân, Lâm… "bàn tay có ngón rất to vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau nắm từng bó lạc và bằng cử chỉ rất nhanh, chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục". Lên Điện Biên, số phận của Đào dần dần thay đổi. Ít nhất ở thời gian này cô không phải bươn chải khắp nơi, không nhà không cửa. Cô đã tìm lại được chút niềm vui trong lao động, với những bạn bè xung quanh. Nhưng do Đào vẫn mang tâm lí mặc cảm, tự ti và chưa hiểu hết mọi người nên cô thấy đau khổ khi bị mọi người châm chọc. Đào mặc cảm vì cái xấu, cái nghèo… của mình, song anh chàng Lâm vô tâm lại khía đúng vào nỗi khổ ấy. Đào không có nhan sắc – vũ khí người phụ nữ nên cô dùng ngôn ngữ để tự vệ. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, chua cay: "Trâu quá xá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị thì còn gì là xuân nữa hỡi các anh". Đào là một người phụ nữ, cô cũng buồn về sự xấu xí, ế ẩm, lỡ làng nên đôi lúc cô mềm lòng, giãi bày sự đau khổ với người đời "mỗi năm mỗi tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi, nồi nào vung nấy, em đã có bố cháu ở dưới xuôi rồi”. Nhưng sau đó, Đào lại thấy tiếc cho sự thành thật của mình "chẳng việc gì phải tủi, phải nhún mình". Cô khát vọng được sống bằng tất cả điều gì mình có, người nào chẳng có phần tốt đẹp. Cho nên Đào không chấp nhận sự thương hại. Cô dám nhìn thẳng vào sự thật, kiêu hãnh về sự thật ấy: "Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ…". Giọng nói chanh chua, chua chát, đanh đá của Đào thật ra chẳng làm ác với ai. Đó chỉ là vũ khí tự vệ để dấu đi tâm lí mặc cảm, đau buồn trong lòng – nỗi đau của còn người ý thức được mình. Đào hiểu muốn hòa nhập là phải tìm thấy trong cuộc sống, trong lao động nét chung, những tấm lòng bao dung. Nhưng hòa nhập không phải là hạ mình, mà vẫn ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Tâm lí Đào thật phức tạp, lúc hờn giận, lúc tủi hổ, khi lại ngẩng đầu hãnh diện. Chính ở tình tiết này, Nguyễn Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng về sự hồi sinh của sự sống. Chỉ khi nào tâm hồn con người biết đấu tranh, biết vươn lên, lạc quan, biết khát thèm sự sống thì tình cảm mới biến chuyển, thay đổi, thể hiện cho sự giằng xé đời hồi sinh. Nếu con người không muốn đến với sự sống thì tâm hồn mãi chỉ là chuỗi dài le lói, băng lạnh, chẳng nẩy sinh ra nhiều diễn biến tâm lí, tình cảm phức tạp.
Thời gian đầu lên nông trường Điện Biên, số phận và tâm lí Đào đã bước đầu thay đổi. Cô đã dần mất đi suy nghĩ "còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ". Chị không còn tâm lí buông trôi chơ số kiếp, chị biết kiêu hãnh, biết sống vì phần tốt đẹp bên trong của mình. Nhưng phải đến thời gian sau – thời gian Đào thật sự hòa nhập với cuộc sống nông trường thì cuộc đời chị mới lật sang trang mới. Đến đây, cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sông sau chiến tranh mới được nhận thấy một cách rõ ràng, đầy đủ.

      Trước kia, tâm lí cửa Đào là "chán sống", "quên đi cuộc đời", nhưng sức sống vần ẩn giấu mãnh liệt trong con người chị qua hình dáng, cử chỉ, ngôn ngữ của chị. Con người với "hai mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh (…) hàm răng khểnh của người luôn luôn ưa đùa cợt" cùng tâm lí "đôi mắt nhỏ vẫn ánh lên thách thức" thì không bao giờ chán sống. Tâm lí mặc cảm, tự ti, đanh đá chỉ là lớp vỏ qua bao nhiêu nắng mưa dãi dầu. Niềm khát khao sống trong cô bao giờ cũng mãnh liệt, hễ khi gặp điều kiện sẽ hồi sinh, phát triển mạnh mẽ. Đào không chịu khép mình trong nỗi đau thầm lặng. Chị sống táo bạo và liều lĩnh bởi chị CẦN SỐNG, THÈM SỐNG. Nỗi khát thèm ấy dữ đội, bùng cháy chứ không thể âm ỉ, bằng lặng.

      Từ tâm lí ghen tị, Đào tìm thấy niềm vui, lao động hăng hái, lối sông tiêu cực bị đẩy lùi. Làm việc bên Huân, nhìn "đôi cánh tay cuồn cuộn thớ thịt cháy nắng, Đào cháy lên nỗi thèm muốn một cảnh gia đình”. Nguyễn Khải viết về sự hồi sinh của cuộc sống, nhưng không chỉ là cuộc sống vật chất, cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, rút đồng, miếng vàng sẫm của mấy mảnh gianh…, mà quan trọng hơn là cuộc sống tinh thần. Sự "hồi sinh" là gì, nếu chẳng phải là sự sống lại mơ ước "cảnh gia đình" đầm ấm, tình cảm hạnh phúc. Đào thích gần Huân chưa hẳn là Đào yêu Huân, bởi lí trí mách cô đừng hi vọng gi ở người con trai ấy. Đào đến với Huân vì hơi thở, nụ cười, sức mạnh của anh đốt lên trong cô niềm hi vọng mới – hi vọng cuộc đời mình chưa tắt hẳn. Sự hồi sinh ở đây chính là tâm lí bền bỉ trong Đào không chịu tắt theo năm tháng.

      Sự hồi sinh – chủ yếu phải do bản thân vận động. Nhưng nếu gặp tác động nào đó, sức sống sẽ nhanh chóng, mạnh mẽ trỗi dậy, Với Đào, sự hồi sinh trong tâm hồn cô trở nên mãnh liệt, lúc âm ỉ, khi bùng cháy dữ dội từ lúc nhận được bức thư tỏ tình của thiếu úy Dịu.

      Lúc đầu, Đào bất bình vì nghĩ "người ta đem mình ra mà đùa cợt", người ta khinh mình, Những mặc cảm, tự ti trong chị vẫn chưa chết hẳn, nó khiến chị tức giận muốn xé bức thư ra "làm trăm mảnh". Nhưng khi gấp lá thư lại, một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra như mạch nước rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn. Hình ảnh "thớ đất khô cằn" chỉ là hình ảnh ẩn dụ chỉ tâm hồn Đào đã chết cứng, đã chai sạn qua bao năm nay, vất vả. Song "mảnh tâm hồn" ấy đã tươi tốt, nẩy mầm bởi cô nhận được lời yêu thương, gắn bó qua bức thư tình, Lời lẽ trong bức thư khiến cho số phận, tâm lí Đào chuyển đổi hoàn toàn, Chị không còn ác cảm với mọi người, vui vẻ, "sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đây là anh em, là người làng, họ nhà gái cả". Giờ đây, sự sống thật sự trở lại với Đào. Cô không còn chán sồng mà thấy mình gắn bó với nông trường: "Chẳng ai ở vậy được suốt đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương… em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Phải đặt hoàn cảnh Đào trong hiện tại với quá khứ mới hiểu hết ý nghĩa, khát vọng trong câu nói của Đào. Hành trình hồi sinh của tâm hồn con người qua bao nhiêu thăng trầm đã SỐNG.

      Đào là con người đau khổ, cô không "hồng nhan" nhưng vẫn cứ "đa truân". Cô xấu xí, mặc cảm, tự tỉ, chán nản với đời khi mới hai tám tuổi. Nhưng cô đã biết vượt qua những rạnh giới hạn hẹp cá nhân để vươn lên chiếm lĩnh cuộc sống. Như vậy, Nguyễn Khải đã phát hiện ra sự sống của con người không bao giờ vơi cạn, kể cả khi tưởng chừng như cá nhân đó buông trôi số phận cho "con tạo xoay vần".

      Sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh không chỉ thể hiện qua nhân vật Đào, mà còn bộc lộ qua Huân với "những khát khao, những ước mơ đốt cháy trái tim", qua lời ngỏ "táo bạo" của ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch. Sau chiến tranh, sự sống hồi sinh khiến "khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng đấm tay thùm thụp". Mảnh đất Điện Biên trước kia là chiến trường ác liệt nhất Đông Dương, mà chỉ mấy năm sau, sức sống đã trở lại: "Trong những buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhẩy đã tháo kíp làm giá bút, một quả lựu đạn cối tiện đầu làm bình hoa, một ống khối thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giây gia thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng mượt". Sự hi sinh xương máu và sức lao động đưa đến một màu xanh thay cho dây thép gai, mìn và còn tràn ngập những tiếng cười, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc: "tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc" mà Nguyễn Khải phát hiện ra chỉ sau bốn năm chiến tranh là biểu hiện sâu sắc sự sống đang hồi sinh khi chiến tranh đi qua: "cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi”.

      Bên cạnh sự hồi sinh trong tâm hồn cảnh sống con người là sự hồi sinh của thiên nhiên, của cơ sở vật chất: "Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh phía Tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số sáu… Một năm đã đi qua, mùa xuân thứ hai đã đến. Mày xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lan dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang".

      Thông qua nhân vật Đào, Nguyễn Khải đã thể hiện một cảm hứng mới – cảm hứng về sự hồi sinh của sự sống sau chiến tranh. Đồng thời biểu hiện một năng lực quan sát, khám phá tinh tế. Với Đào, ông không muốn diễn tả nỗi đau nhân thế mà muốn bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào sự biến đổi của số phận con người. Đào là hình tượng điển hình cho những người biết vượt qua ranh giới, đứng lên bằng sức mạnh chính mình mà sông để tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống mới.

---/---

Với  các bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải do Top lời giải sưu tầm và biên soạn trên đây, hy vọng các em sẽ có thêm những góc nhìn mới mẻ và có cái nhìn tổng quát hơn về  tác phẩm. Chúc các em làm bài tốt!

icon-date
Xuất bản : 22/07/2021 - Cập nhật : 23/07/2021

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads