Câu hỏi: Oxit lưỡng tính là chất nào?
Trả lời:
Oxit lưỡng tính: Là những oxit vừa tác dụng với dung dịch axit, vừa tác dụng với dung dịch bazơ, ví dụ như: Al2O3, ZnO, SnO, PbO, BeO, Cr2O3 ...
ảnh
Mời bạn đọc cùng với Top lời giải tìm hiểu chi tiết về oxit lưỡng tính qua bài viết dưới đây!
Theo thuyết Bronsted-Lowry về axit và base: axit là chất cho electron và base là chất nhận electron. Một phân tử lưỡng tính (hoặc ion) có thể cho hoặc nhận một electron, do đó hoạt động như một axit hoặc một base. Nước, amino acid, ion hydro cacbonat (ion bicacbonat) và ion hydro sunfat (ion bisunfat) là những ví dụ phổ biến của các chất lưỡng tính. Vì chúng đều có nguyên tử hydro, có thể cho electron thể hiện tính axit. Ngoài ra, chúng có thể hoạt động như một base nên chúng là chất lưỡng tính.
Một ví dụ phổ biến của một chất lưỡng tính là ion hydro cacbonat, có thể hoạt động như một base:
ảnh 2
Hoặc dưới dạng axit:
ảnh 3
Do đó, nó có thể cho hoặc nhận một proton.
Nước là ví dụ phổ biến nhất, hoạt động như một base khi phản ứng với một axit như hydro chloride:
H2O + HCl → H3O+ + Cl-
và hoạt động như một axit khi phản ứng với một base như amonia:
H2O + NH3 → NH4+ + OH-
Một hợp chất có thể cho hoặc nhận proton là chất lưỡng tính, nhưng điều ngược lại là không đúng. Ví dụ, oxit kim loại ZnO không chứa hydro và không thể cho một proton. Thay vào đó, nó là một axit Lewis có nguyên tử Zn nhận một cặp electron từ gốc OH-. Các oxit và hydroxide kim loại khác được đề cập ở trên cũng có vai trò như axit Lewis chứ không phải là axit Bronsted.
Những oxit kim loại có khả năng tạo muối khi tác dụng với axit (hoặc oxit axit) cũng như khi tác dụng với bazơ (hoặc oxit bazơ) gọi là oxit lưỡng tính.
Thường gặp là các oxit: ZnO, Al2O3, Fe2O3, Cr2O3, SnO, PbO, SnO2, PbO2, MnO2,…
Ví dụ: Al2O3 + 6HCl → 2AlCl3 + 3H2O
Al2O3 + 6NaOH + 3H2O → 2Na3[Al(OH)6]
Tính hai mặt này không phải thể hiện như nhau đối với mọi oxit lưỡng tính, tùy theo nguyên tố kết hợp mà thể hiện ở mức độ khác nhau. Ví dụ: ZnO dễ tan trong axit cũng như trong dung dịch kiềm; Fe2O3 có tính bazơ trội hơn nên dễ tan trong axit, tính axit chỉ thể hiện khi tác dụng với kiềm ở nhiệt độ cao nhưng với SnO2 thể hiện tính axit cao hơn tính bazơ.
Nhôm hydroxide cũng là chất lưỡng tính:
Beryllium hydroxide
Ngoài oxit lưỡng tính, oxit còn được chia ra thành oxit axit, oxit bazơ và oxit trung tính. Chúng ta cùng tìm hiểu qua về 3 loại oxit kể trên nhé.
Oxit axit được gọi là anhidrit axit, là các oxit khi tác dụng với nước sẽ tạo ra axit, tác dụng với kiềm tạo thành muối hóa học. Oxit axit thường là oxit của phi kim ứng với một axit hoặc kim loại có hóa trị cao.
Ví dụ: Mn2O7 - HMnO4, CO2 - H2CO3, P2O5 - H3PO4.
Oxit bazơ là hợp chất gồm một hay nhiều nguyên tử kim loại kết hợp với một hay nhiều nguyên tử oxi và có bazơ tương ứng. Các oxit bazơ tan được trong nước gồm các kim loại kiềm (Li, Na, K,...) và kim loại kiềm thổ (Mg, Ca, Ba,...) trừ Be.
Oxit bazơ tác dụng được với axit để tạo thành muối và nước. Một số oxit bazơ phản ứng với nước để tạo thành bazơ tan gọi là kiềm.
Ví dụ: Na2O - NaOH, Fe2O3 - Fe(OH)3...
Oxit trung tính là những hợp chất hóa học có chứa một nguyên tố hóa học liên kết với một hoặc nhiều nguyên tử oxy và không có tính chất axit hoặc bazơ. Do đó, vì chúng không có tính chất axit và bazơ nên chúng không thể tạo thành muối khi chúng phản ứng với axit hoặc bazơ.
Xem xét một số ví dụ, nitơ monoxit (NO), cacbon monoxit (CO) và nitơ oxit (N2O) là những oxit trung tính.
Sự khác biệt giữa các oxit trung tính và lưỡng tính là gì?
Oxit là những hợp chất hóa học chứa một nguyên tố hóa học (kim loại hoặc phi kim) được liên kết với một hoặc nhiều nguyên tử oxy. Oxit trung tính và lưỡng tính là hai trong bốn loại hợp chất oxit chính. Sự khác biệt cơ bản giữa các oxit trung tính và lưỡng tính là các oxit trung tính không có tính chất axit hoặc bazơ, trong khi các oxit lưỡng tính có cả tính chất axit và bazơ. Do đó, oxit lưỡng tính có thể tạo muối và nước khi phản ứng với axit hoặc bazơ, trong khi oxit trung tính không thể tạo muối và nước khi phản ứng với axit hoặc bazơ. Vì vậy, chúng ta có thể coi đây là một sự khác biệt nữa giữa các oxit trung tính và lưỡng tính, xuất phát từ sự khác biệt trước đó.