logo

Nhận định về nhà thơ Chế Lan Viên

icon_facebook

Câu hỏi: Nhận định về nhà thơ Chế Lan Viên

Trả lời:

Chế Lan Viên - Thi sĩ tài hoa và “nóng nảy và ân tình”

a. Thi sĩ tài hoa

Nhắc đến nhà thơ Chế Lan viên, nhà văn Lê Thành Nghị, Chủ tịch Hội đồng lý luận, Hội Nhà văn Việt Nam đã thốt lên rằng: “Từ thuở viết ‘Điêu tàn’ cho đến những tập cuối cùng của ‘Di cảo’, Chế Lan Viên đã làm cho người đọc đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Sức sáng tạo của Chế Lan Viên có thể nói là phi thường và dấu ấn thơ ông để lại trong đời sống tinh thần thời đại mà ông sống quả là hết sức sâu sắc.”

Có thể nói rằng, đến Chế Lan Viên, thơ Việt Nam đã phát lộ hết chiều kích, trở nên sang trọng với những vẻ đẹp hiện đại.

Bà Đặng Anh Đào (con gái của Giáo sư Đặng Thai Mai), người chuyên nghiên cứu về văn học phương Tây đã nhận xét về thơ Chế Lan Viên: Chế Lan Viên chịu ảnh hưởng của văn học Pháp. Ông đọc tác phẩm trực tiếp bằng tiếng Pháp nhiều nên có sự tiếp nhận trong máu thịt chứ không phải là sự vận dụng. Trong thơ Chế Lan Viên có hướng về ngoại lai, mơ về những xứ Chàm, tiếng ma hời khóc than. Nhưng đó vẫn là một sắc màu của quê hương Chế Lan Viên.

Sau này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông có những bài thơ bốn chữ không thể quên được. Ví như, bài nói về tấm ảnh liệt sĩ trên bàn thờ của một bà mẹ Việt Nam có những câu rất tài tình: “Mười năm ảnh giỗ phai màu thuốc/ Đôi mắt còn thiêu sạch trại đồn.”

Còn, theo cách nói của Giáo sư Hà Minh Đức, với tập thơ “Hoa ngày thường,” “Chim báo bão,” tư duy thơ của Chế Lan Viên phát triển năng động và tài hoa qua nhiều lĩnh vực.

Nhà thơ không nhìn đời thuận chiều đến đơn điệu mà nhạy cảm phát hiện ra những mặt đối lập trong cuộc sống qua mỗi sự kiện chính trị, xã hội, hay trong chính tư tưởng nhận thức của con người…

Từ nhiều nguồn mạch đổ về, đặc biệt sự giàu có của suy tưởng, liên tưởng, tưởng tượng cùng với vốn hiểu biết nhiều trải nghiệm nên thơ Chế Lan Viên luôn tạo cho người đọc thỏa mãn với đầy đủ ý thơ và cảm xúc thơ.

Tư duy triết luận kết hợp với tư duy chính luận tạo nên sự sắc sảo, mạnh mẽ của ngòi bút Chế Lan Viên. Trong thơ ông có những tứ thơ sâu sắc kết đọng tình nghĩa với Đảng, với quê hương, mang cảm hứng hào hùng về Tổ quốc có không khí “Xuân bốn bề tình ái lại đưa thoi.”

b. “Nóng nảy và ân tình”

Nhà văn Phan Quang là người đồng hương và thân thiết với Chế Lan Viên kể rằng, ông biết Chế Lan Viên từ lúc ông hai mươi tuổi. Chế Lan Viên là người trung trực, sự trung trực mang tính nghệ sĩ, đôi khi thẳng thắn thái quá. Ông là người “ra đường thấy cảnh bất bình chẳng tha” nên thấy gì không đúng là hay cãi khiến nhiều người yêu và cũng nhiều người không ưa ông.

Bên cạnh đó, Chế Lan Viên còn được những thân hữu nhận xét là rất ân tình. Ngay cả những buồn đau của ông cũng có tính nghệ sĩ nên ông dễ rơi nước mắt.

Nhà thơ Ngô Văn Phú, một người đàn em được Chế Lan Viên dìu dắt và đã có khoảng thời gian được làm việc cùng ông ở tuần báo Văn học (nay là báo Văn nghệ) xúc động ôn lại ôn lại những kỷ niệm xưa.

Nhà thơ Ngô Văn Phú kể rằng, ông gặp Chế Lan Viên trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Lúc đó vào khoảng năm 1967-1968, Chế Lan Viên ở 51 Trần Hưng Đạo, chỗ tuần báo Văn học. Ông Phú khi ấy vừa ra trường về làm ở tổ lý luận của báo. Chế Lan Viên lúc đó vừa rất “ghê gớm” lại vừa vui. Thấy Ngô Văn Phú, Chế Lan Viên liền giơ tay vái vái: “Xin chào sĩ phu Bắc Hà”.

“Mình vừa mới ở trường ra còn ‘non choẹt’ mà ông gọi là sĩ phu Bắc Hà thì không biết có phải ông đang giễu mình hay không,” nhà thơ Ngô Văn Phú nhớ lại.

Đến với Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Chế Lan Viên, còn nhiều nữa những con người đã từng có thời gian gắn bó với thi sĩ. Họ muốn kể nhiều hơn những kỷ niệm của họ với thi sĩ Chàm. Nhà văn Phan Quang đã mượn hai câu thơ của nhà thơ Pháp để bày tỏ nỗi lòng với Chế Lan Viên: “Tôi có quá nhiều kỷ niệm/ Như thế đã sống cả ngàn năm.”

Ngoài ra, cùng Top lời giải tìm hiểu chi tiết hơn về thân thế và sự nghiệp của nhà thơ Chế Lan Viên nhé


1. Tiểu sử nhà thơ Chế Lan Viên

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.

Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.

Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.

Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.

Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Nhận định về nhà thơ Chế Lan Viên hay nhất

Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.

Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 68 tuổi.

Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.


2. Sự nghiệp văn chương

Trong cuộc đời sáng tác, nhà thơ Chế Lan Viên để lại nhiều tác phẩm giá trị ở cả thể loại thơ, văn, tiểu luận phê bình. Đáng chú ý là các tập thơ: "Điêu tàn", "Ánh sáng và phù sa", "Hoa ngày thường - Chim báo bão", "Những bài thơ đánh giặc", "Đối thoại mới", "Hoa trên đá", các tập văn "Vàng sao", "Những ngày nổi giận", "Bác về quê ta", "Giờ của đô thành"... Trong đó, có nhiều bài thơ được các thế hệ độc giả yêu mến như "Người đi tìm hình của nước", "Tiếng hát con tàu", "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?"...

Tại lễ kỷ niệm, các nhà nghiên cứu, nhà văn một lần nữa khẳng định, Chế Lan Viên là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới, góp phần đưa nền thơ dân tộc lên đỉnh cao. Ông đã đem đến sự hài hòa cho Thơ mới và cho tiến trình thơ Việt từ 1945 đến nay.


3. Phong cách nghệ thuật 

- Con đường thơ của Chế Lan Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ", thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945 - 1958).

- Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời.”

- Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã "đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng và có những thay đổi rõ rệt.

 - Trong thời kì 1960 - 1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. 

- Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi" trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống". 

=> Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý. Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.


4. Một số tác phẩm tiêu biểu

Tác phẩm thơ tiêu biểu:

Điêu tàn

Gửi các anh

Ánh sáng và phù sa

Hoa ngày thường - Chim báo bão

Những bài thơ đánh giặc

Đối thoại mới

Ngày vĩ đại

Hoa trước lăng Người

Dải đất vùng trời

Hái theo mùa

Hoa trên đá

Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)

Ta gửi cho mình (1986)

Di cảo thơ I, II, III

Tuyển tập thơ chọn lọc

Tác phẩm văn:

Vàng sao

Thăm Trung Quốc (bút ký)

Những ngày nổi giận (bút ký,)

Bác về quê ta (tạp văn,)

Giờ của đô thành (bút ký)

Nàng tiên trên mặt đất

Tiểu luận phê bình tiêu biểu:

Kinh nghiệm tổ chức sáng tác

Nói chuyện thơ văn

Vào nghề

Phê bình văn học

Suy nghĩ và bình luận

Bay theo đường bay dân tộc đang bay

Nghĩ cạnh dòng thơ

Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân

Ngoại vi thơ

Nàng và tôi

icon-date
Xuất bản : 20/02/2022 - Cập nhật : 22/02/2022

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads