logo

Lí luận văn học về bài thơ Vội vàng

icon_facebook

Kiến thức lí luận văn học về bài thơ Vội vàng của tác giả Xuân Diệu để giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 8


Lí luận văn học về bài thơ Vội vàng - Mẫu số 1

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thật vậy, thơ Xuân Diệu là sự giải phóng thật sự của cái tôi cá nhân luôn khao khát, đắm đuối cuộc sống, tuổi trẻ, tình yêu. Vì vậy, Hoài Thanh đã nhận xét: Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữvà thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, tạo ra một cảm giác mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ. Có lẽ, Xuân Diệu là người đã tạo ra sự đổi mới đó một cách mạnh mẽ và thể hiện nó như một tuyên ngôn nghệ thuật trong các tác phẩm của mình: Tôi để lòng tôi trong những câu tiếng, tôi đã gửi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói ghém hơi thở của tôi trong ít nhiều âm điệu. Và bài thơ Vội vàng chính là điển hình cho phong cách nghệ thuật ấy.

Lí luận văn học về bài thơ Vội vàng hay nhất

Xuân Diệu (1916 - 1985) tên khai sinh Ngô Xuân Diệu, bút danh Trảo Nha, quê cha ở Hà Tỉnh, quê mẹ ở Bình Định, lớn lên ở Quy Nhơn. Sau khi học xong tú tài, Xuân Diệu làm viên chức ở Mĩ Thọ sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn là 1 thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sớm tham gia Cách mạng và hoạt động văn hóa nghệ thuật rất sôi nổi trở thành gương mặt tiêu biểu cho phong trào thơ mới.

Trước Cách mạng, thơ Xuân Diệu thể hiện một tâm hồn khát khao giao cảm với đời tuy nhiên cũng nói lên nhiều chán nản hoài nghi, nhân vật trữ tình hiện diện trong thơ hết sức cô đơn. Sau Cách mạng, thơ ông chan chứa niềm tin yêu về cuộc sống về đất nước, không còn chán nản hoài nghi mà nỗ lực hoà cái riêng vào cái chung của dân tộc, vào cuộc sống xây dựng xã hội mới Vì thế Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại là Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới với các tập thơ tiêu biểu là Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Riêng chung. Với hồn thơ nhạy cảm với thời gian, là nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêuXuân Diệu còn được mệnh danh là Ông hoàng của thơ tình

Bài thơ in trong tập Thơ thơ tác phẩm thi ca đầu tay của Xuân Diệu. Khi đó nhà thi sĩ ấy là một chàng trai hiền hậu và say mê, tóc như mây vương trên đài trán ngây thơ, mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn lòng ân ái. Chàng đi trên đường thơ, hái tặng những bông hoa gặp dưới bước chân, những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Thơ thơ là cụm đầu mùa chàng tặng cho nhân gian. Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu

Câu nói Văn học không chỉ là tấm gương phản chiếu cuộc sống mà còn là sản phẩm tâm hồn của người nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm là đứa con tinh thần mà người nghệ sĩ sáng tạo và sinh ra, gửi gắm những tâm tình, nỗi lòng của chính mình với cuộc đời, với con người. Văn chương là nơi để người ta có thể thoát khỏi trần thế, phiêu du với cõi tiên, để phá vỡ những quy tắc tự nhiên vốn có.

Và thơ Xuân Diệu là một điển hình như thế. Ông gửi vào những vần thơ trong veo nỗi lòng và tình yêu hay oán trách. Sau tất cả vẫn là một tâm hồn chân thực và khát khao được sống, được cống hiến. Tôi để lòng tôi trong những câu, những tiếng

với Xuân Diệu một hồn thơ tha thiết giao cảm với cuộc đời, thơ trở thành phương tiện để giãi bày, bộc lộ những cảm xúc chân thật nhất. Không chỉ có thế tôi đã ghi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói ghém hơi thở của Tôi trong ít nhiều âm điệu, Xuân Diệu quan niệm nhà thơ cần in dấu ấn riêng của mình trong giọng điệu ngôn từ, thế giới hình ảnh thơ, Và Vội vàng là một bài thơ như thế nơi mà ông Hoàng thơ tình được trải lòng cùng với trời đất, được khát khao cống hiến và hưởng thụ, nơi mà một tài năng trở thành bất diệt

Mở đầu cho bản tình ca về cuộc sống là niềm khao khát giao cảm với đời, ước muốn níu giữ thời gian để vĩnh cửu hóa vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay đi Bằng những câu thơ ngụ ngôn, thị sĩ đã bày tỏ những ước muốn kì lạ: tắt nắng, buộc gió để giữ lại màu sắc hương vị của cuộc đời. Đó là ao ước được can dự vào quy luật của tạo hóa thật táo bạo và khác thường.

Khát vọng ấy không phải được bắt đầu từ sự nông nổi ngông cuồng của tuổi trẻ mà cháy lên từ một tâm hồn thi sĩ lãng mạn đa cảm và thiết tha yêu đời muốn được giữ mãi bên mình vẻ đẹp thanh tân của cuộc đời này, chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hóa vẻ đẹp của cuộc đời. Cũng là một nhà thơ mới,cũng là lứa tuổi của Xuân Diệu nhưng Chế Lan Viên lại viết những câu thơ buồn bã ai đâu trở lại mùa thu trước nhặt lấy cho tôi những lá vàng với của hoa tươi, muôn cánh rã về đây đem chắn nẻo xuân sang Chính vì lẽ đó ta tới thấy càng trân trọng yêu mến biết bao nhiêu tâm hồn nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu với Cuộc đời.

Bốn câu thơ năm chữ mở đầu bài thơ tự do và cách ngắt nhịp vội vã dứt khoát những điệp ngữ tôi muốn, cho kết hợp với điệp cấu trúc ngữ pháp đã tô đậm thức độ mãnh liệt nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn thi sĩ. Trong Xuân Diệu, đó còn là một giao cảm đặc biệt với thiên nhiên của cuộc sống nơi trần thế.

Nhà thơ cảm nhận cuộc đời như một khu vườn mùa xuân căng đầy nhựa sống: của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì. Này đây lá của cành tơ phơ phất của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa,Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Với thi sĩ, một năm chỉ có hai mùa xuân và thu: Xuân với thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy thu cũng là một mùa xuân (Trường Ca) Mùa xuân mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của gắn bó sinh sôi hạnh phúc. Và khu vườn xuân trong bài thơ cũng Vội vàng dâng sắc, tỏa hương, trao mật ngọt.

Ong bướm rộn ràng bởi những đóa hoa xuân khoe sắc thắm nổi bật giữa đồng nội xanh rì. Cành tơ phơ phất vươn dáng nõn nà trong bức tranh xuân. Ánh nắng bình minh bừng hé đầy ngạc nhiên vì thế giới xung quanh mình. Yến anh hội hè rộn rã. Tháng giêng mơn mởn da thịt xuân hồng. Một bức tranh đầy ánh sáng mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh tình tứ, rộn rã, đầy màu sắc, hương thơm và vị ngọt men say tình ái, đầy niềm vui đón chờ mỗi ban mai.

Và nhựa sống như dâng lên trong lòng tạo vật. Tất cả đều được bày sẵn, gọi mời như một bữa tiệc trần gian. Những điệp ngữ này đây kết hợp với những hình ảnh liệt kê mở ra trước mắt người đọc cả 1 thế giới tràn đầy xuân sắc góp phần diễn tả một điệu tâm hồn say mê hồi hả của thi sĩ có cảm giác nhà thơ mới lạc bước xuống thiên đường trần thế cho nên đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình vườn hạnh phúc.

Thiên nhiên tạo vật đầu có đôi có cặp say sưa rộn ràng và mê mải trao sắc gửi hương trong mùa tình ái dường như xui khiến lòng người rạo rực đắm say, sung sướng ngất ngây tận hưởng. Thì nhân hóa tình nhân. Nhà thơ thiết tha gắn bó với cuộc đời, mong được: sống toàn tim, toàn ý, toàn hồn Sống toàn thân và thức nhọn mọi giác quan

Để cảm nhận hết, tận hưởng tất cả mọi vẻ đẹp của cuộc sống. Chính cái nhìn trẻ cặp mắt Xanh non và Biếc rờn luôn lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp đã tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh của người thi sĩ . Tuần tháng mật trở thành mùa bướm ong dập dìu. Cành xuân đã hóa thành cành cành tơ đầy nhựa sống.

Tiếng chim say sưa của chim yến chim oanh quấn quýt bên nhau tạo nên bản nhạc mùa xuân say đắm khôn cùng. Và bình minh xuân diễm lệ mang gương mặt của người con gái kiều diễm với rèm mi làm bằng ánh sáng. Tháng giêng một khái niệm vốn vô hình được thi sĩ So sánh ngon như một cặp môi gân.

Tháng giêng mơn mởn cành tơ, môi gần gợi cảm, yêu kiều, vừa gợi cảm xúc trần thế đắm say nồng nàn của con người, vừa ấp trong tấm lòng rộng mở sẵn lòng ân ái với cuộc đời của tình nhân-thi sĩ. Cái nhìn trẻ ấy đã trẻ hóa thế giới già nua , làm cho nó mới mẻ đầy bất ngờ ngạc nhiên như lần đầu tiên được khám phá bởi đôi mắt chập chững sáng trong nơi tâm hồn con trẻ. Những điệp ngữ này đây kết hợp với hình ảnh liệt kê như mở ra trước mắt người đọc một thiên đường nơi trần thế. Một thế giới đầy điều mới lạ, tươi trẻ và muôn sắc hồng.

Đứng trước thiên nhiên vô tận, Xuân Diệu còn ý thức được sự hữu hạn của cá nhân, dự cảm lo âu về thời gian và sự ngắn ngủi của tuổi trẻ. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ lòng yêu đời, yêu sống thiết tha. Trong quan niệm của người xưa, thời gian là tuần hoàn, xuân đi rồi lại đến.

Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn tĩnh tại lấy vũ trụ làm thước đo của thời gian. Từ quan niệm ấy người xưa có một lối sống an nhiên thuận theo lẽ tự nhiên và nhận thức rằng cái chết chưa hẳn đã là hư vô: Xuân qua, trăm hoa rụng Xuân tới trăm hoa tươi Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai Xuân diệu lại có ý thức khác về thời gian:xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Với thi sĩ, thời gian của cuộc đời vẫn trôi chảy không ngừng, từng phút giây đi qua sẽ chẳng bao giờ lấy lại được .

Câu thơ trên mới đọc qua tưởng như là vô lí nhưng lại được viết nên từ những lí lẽ mang tính triết học và tâm hồn nhạy cảm của Xuân Diệu. Quan niệm đó của nhà thơ xuất phát từ cái nhìn nhìn biện chứng về vũ trụ và cuộc đời, nỗi niềm khắc khoải thời gian vẫn thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Tuy nhiên thực tế vẫn thực tế: Hoa nở để mà tàn Trăng tròn để mà khuyết, Bèo hợp để chia tan Người gần để ly biệt

Vũ trụ vẫn chuyển động như vốn dĩ, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận hơn ai hết một sự thật đáng buồn Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, ngày hôm nay đã khác hôm qua, huống chi năm này với năm khác, nàng xuân thì trường sinh còn tuổi trẻ mỗi người đều có giới hạn. Nhà thơ đã lấy mùa xuân, tuổi trẻ làm thước đo cho cuộc đời mỗi con người.

Tuổi trẻ là khoảng thời gian quý giá nhất nhưng cũng vô cùng ngắn ngủi. Cuộc đời con người và tuổi xuân được đặt trong mối quan hệ với không gian, thời gian mênh mông vĩnh hằng:Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất cho nên lại càng ngắn ngủi, hữu hạn biết bao nhiêu.

Khát khao của người nghệ sĩ càng vô cùng lớn lao thì giới hạn của kiếp người càng trở nên ngắn ngủi, chật chội. Đến đây cái vui rạo rực của phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn, một nỗi niềm nuối tiếc khôn nguôi đối với cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này: 

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi 

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Tác giả đã tạo ra giọng tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình. Nhà thơ như đang đối thoại với ai đó đang yên tâm với quỹ thời gian bốn mùa tuần tự trôi qua không mất đi đâu. Nhà thơ đã dựng lên mối tương quan đối lập giữa các hình ảnh Non, Già Tới Qua Còn chẳng còn, vẫn tuần hoàn chẳng hai lần thắm lại đã tô đậm bi kịch của kiếp người mang tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn không bao giờ sống trọn vẹn được phần khát khao của chính mình.

Thi sĩ thấy thời gian như ngọn gió bay nhanh, lướt qua tất cả. Lúc tạo vật ở độ căng mọng nhất cũng là khi đối diện với sự ám ảnh tàn phai hủy diệt của ngọn gió thời gian. Tất cả đều bất ngờ, hụt hẫng, tiếc nuối, thảng thốt. Thời gian có mùi, có vị chia phôi. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một chia lìa một mất mát. Bao nhiêu sự vật trên thế giới này. Mỗi khoảnh khắc trôi qua đang từ giã bản thân mình. Cho nên cả trời đất, núi sông dâng lên một âm thanh duy nhất: âm thanh của sự chia li. Vạn vật thở than ngậm ngùi đưa tiễn phần đời của chính nó.

Những phần đời như thế ra đi không thể nào cưỡng nổi tạo thành dòng chảy không ngừng phôi pha, mất mát, chia lìa. Sự thức dậy sâu xa về giá trị sống có thể đã đưa đến một cảm nhận đầy ám ảnh về thời gian trong lòng tạo vật như thế ở nhà thơ Xuân Diệu

Chính vì sự nghiệt ngã của thời gian nên Xuân Diệu mới hối hả, cuống quýt, giục giã sống nhanh, sống gấp. Làm gì trước thời gian vội vã đuổi mau? Thi sĩ đã từng trả lời câu hỏi đó bằng nhiều cách. Xuân Diệu từng ao ước có cặp hài vạn dặm để Đi mau trốn nét, trốn màu nhưng đó chỉ là ước mơ cổ tích.

Trong Vội vàng thi sĩ đã phát hiện ra cách chiến thắng thời gian bằng cường độ sống, khát vọng sống, tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng tất cả các giác quan, sống mãnh liệt như ngọn lửa thổi bùng. Vì thế nhà thơ giục giã phải sống nhanh sống gấp để cho kịp với thời gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại Giục giã chúng ta phải Nhanh lên, vội vàng lên để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà Mùa chưa ngả chiều hôm, khi mà xuân đang non, xuân chưa già: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

Ta cũng bắt gặp một lời giục giã như thế trong một bài thơ khác: Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi

Với Xuân Diệu, vội vàng là phải sống bằng tất cả cường độ mãnh liệt, sống hết mình để tận hưởng cuộc sống, cuồng nhiệt đến mức muốn ôm riếtsaythâucắn để tận hưởng cuộc sống này một cách trọn vẹn và hạnh phúc nhất. 3.2 Vội vàng mang dấu ấn riêng của một hồn thơ, một phong cách nghệ thuật Đó là một cái tôi tràn đầy cảm xúc, sôi nổi, mạnh mẽ, đắm say đến cuồng si. Một cái tôi. khẳng định trước đất trời, trước cuộc đờiXuân Diệu có những ước muốn táo bạo mà chưa ai dám nghĩ tới. Thi sĩ bày tỏ ước muốn kì lạ tắt nắng, buộc gió để giữ lại màu sắc hương vị của cuộc đời.

Đó là ao ước được can dự vào quy luật của tạo hóa. Thật táo bạo, khác thường! Và rồi để khép lại bài thơ là một khát khao cháy bỏng, cuồng nhiệt hơn bất cứ ai hết: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn.-Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người Khát vọng tận hưởng cuộc sống: Ở trên, tác giả xưng tôi để đối thoại bộc bạch giãi bày với đồng loại với cuộc đời, ở dưới lại xưng ta để đối diện với sự sống trên trần gian, đối tượng cần tận hưởng.

Có nhà thơ đã nói thơ chỉ tràn ra khi cuộc sống trong tim đã ứ đầy, vì thế nhà thì đã tuyên bố: Ta muốn ôm Câu thơ như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang ôm bó, níu giữ, quấn quýt Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn, non tơ của nhà thơ, Mơn mởn là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm giác sự vật, cây cối đang độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống: Ta ôm bó cánh tay ta làm rắnlàm dây da quấn quýt cả vườn xuânKhông muốn đi, mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất(Thanh niên)Lần theo bước chân vội vàng quấn quýt với sự sống của thi nhân ta bước chân vào một thế giới đầy những hình ảnh sinh động:Ta muốn riết mây đưa và gió lượn. cắn vào người Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn từ ta muốn được lặp đi lặp lại như nhịp điệu hối hả như nhịp thở gấp gáp của thi nhân. Nó đã nói lên được ham muốn thèm khát đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ.Cho chuếnh choáng mùi thơm.Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Mới đọc qua tưởng như là một câu văn xuôi tầng thường, nhưng thật ra lại rất thơ, không chỉ đã diễn tả được ý thơ ấy (thoả thuế, sung mãn) mà còn gợi cho ta ý nghĩa: thế giới này vừa hiện ra như một người tình hồng hào sức xuân mà thi nhân đắm say, vừa được bày ra như một bữa tiệc lớn với những thực đơn đây của ngon vật lạ và thi nhân chính là thực khách đang trong trạng thái khát thèm đến cháy bỏng. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắtXanh non, biếc rờn của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và có hình có dáng, có hồn có sắc. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương ngọt thơm trong vườn.

Đứng trước cái hấp dẫn của mùa Xuân, cuộc sống thật không thể nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu. Ta muốn cắn vào người. Mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Mới từ điệu tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ đến cách đặt câu, dùng từ. Ngay cả liên từ và được dùng có vẻ thừa thãi nhưng cũng đã thể hiện được cái tôi của Xuân Diệu.

Nghĩa là làm nổi rõ được cái cảm xúc tham lam, ham hố đang trào lên mãnh liệt trong trái tim yêu đời của Xuân Diệu. Xuân Diệu đó còn là một cảm quan nghệ thuật mới mẻ, độc đáo. Thí sĩ cảm nhận thiên nhiên bằng cái nhìnXanh non biếc rờn, bằng lăng kính tình yêu làm chuẩn mực để miêu tả thiên nhiên, sự sống. Nhà thơ đã vẽ ra một bức tranh về cuộc đời trong đó lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực để nói lên vẻ đẹp của thiên nhiên, sắc xuân của trần thế.

Trong bức tranh ấy ta bắt gặp chim yến chim oanh, bắt gặp ong, bướm và thấy cả những ánh sáng chớp hàng mi, những ánh sáng ngập tràn trong tâm hồn của kẻ tình si. Những hình ảnh thân thuộc nhưng đã được khoác lên một tấm áo mới. Xuân Diệu đã thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Ông Hoàng thơ tình thông qua giọng điệu, ngôn ngữ, sáng tạo hình ảnh thơ, thủ pháp nghệ thuật làm nên diện mạo của Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, Giọng điệu vội vàng lúc ngọt ngào, sâu lắng, lúc tha thiết, rạo rực, lúc lại bâng khuâng, xao xuyến để rồi cuối cùng là những giục giã, hối bố, vội vàng, cuống quýt.

Nhà thơ đã đưa người đọc đi trọn vẹn mọi cung bậc cảm xúc để hòa mình vào không gian riêng của thi sĩ, của thời đại, để cùng đắm say với tình yêu, với cuộc sống. Xuân Diệu sử dụng một hệ thống ngôn ngữ độc đáo, mang đậm phong cách của nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

Những tính từ mạnh được sử dụng một cách hiệu quả, thú vị Chếnh choáng, đã đầy, no nê để nhấn mạnh vào sắc thái hưởng thụ thỏa thuê của nhân vật trữ tình. Tất cả cộng hưởng với nhau tạo nên một một làn sóng ngôn từ và cảm xúc càng lúc càng mãnh liệt dâng lên đến cao trào. Lời thơ tuôn đi hối hả như một bản hành khúc của lòng ham sống, với Xuân Diệu cuộc đời nơi trần thế là thiên đường tuyệt diệu nhất.

Ý kiến của Xuân Diệu thật sâu sắc khi đề cập đến vấn đề cốt lõi của thơ điều cần thiết để thơ đi vào lòng độc giả và vượt qua được quy luật trước thời gian. Vội vàng như một thứ tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Qua tâm hồn đa cảm của thi nhân, bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật tuyệt vời, thật đáng yêu và đáng sống. Tất cả được thể hiện bằng tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ tài hoa. Đó là minh chứng hùng hồn cho quan niệm về sáng tạo thi ca ở một nhà thơ lớn.

Vội vàng có nét độc đáo trong cấu tứ. Bài thơ Có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố trữ tình và chính luận, vừa bộc lộ những rung động mãnh liệt vừa lí giải về lẽ sống vội vàng, cuống quýt mà Xuân Diệu muốn gửi đến độc giả. Là cây bút tích cực tiếp thu thành tựu nghệ thuật thời trung đại

Và đặc biệt cái mới trong thơ phương Tây, Xuân Diệu Có nhiều sáng tạo trong cách tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách diễn đạt mới, hình ảnh mới. Chính điều đó đã làm nên tên tuổi của Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

Đến với bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, mỗi người như được tiếp thêm một nguồn sống dồi dào, mãnh liệt, biết sống thế nào để cuộc đời ngắn ngủi của mỗi con người trên thế gian này không trôi đi một cách vô nghĩa.Vội vàng cũng là nơi cái tôi độc đáo, sáng tạo của thi sĩ được thể hiện rõ nét nhất và tiếng lòng của Xuân Diệu được cất lên không trực tiếp nhưng để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc


Lí luận văn học về bài thơ Vội vàng - Mẫu số 2

Hành trình của đời người đi cùng với thời gian phiêu lãng, với tình cảm yêu mến, trân trọng nhà thơ – chàng trai trẻ hiền hậu và say mê tóc như mây vướng trên đài trán ngây thơ mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng một tấm lòng yêu đời. Chàng đi trên đường thơ hái những bông hoa gặp dưới bước chân những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Chính vì vậy mà trong bài Tựa viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu, nhà thơ Thế Lữ đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”.

Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn đầy mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì.

Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà Thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với:

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng.

(Mùa xuân chín)

Và Nguyễn Bính với:

Mùa xuân là cả một mùa xanh

Trời ở trên cao lá ở cành.

(Mùa xuân xanh)

Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi đang căng tràn nhựa sống.

Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai sau. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kì. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.

Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu gầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mâỵ trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lí thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Muốn “tắt nắng đi” và muốn “buộc gió lại” ư? Đó là những điều không ai có thể làm được, những khát khao thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đối với trái tim nhà thơ, bởi đó là một trái tim đầy khát khao mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ sống, muốn giữ mãi cho minh những hương, những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp biết chừng nào, quý giá biết chừng nào! Trong cuộc sống này, tất cả đều kì diệu, bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho đời cái tuyệt diệu của mình. Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Chàng thi sĩ của vườn trần có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi quy luật bình thường của tạo hóa. Nhưng quy luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngàỵ, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: Giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.

Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng và gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: Nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến: Đương lúc hoàng hôn xuống

Là giờ viễn khách đi

Nước đượm màu li biệt

Trời vương hương biệt li

(Viễn khách)

Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.

Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo cho tương lai:

Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn

Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến 

(Giục giã)

nên trái tim giục giã nhà thơ bày tỏ nỗi niêm tha thiết với mùa xuân. Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian. Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”’.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si.

Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất. Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dụng thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhận vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất” của yến anh là khúc tình “si”… thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngộn đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những món ăn có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng nhũng tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu – cảnh vật trong thơ đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hóa (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: “Tuần tháng mật” “đồng nội xanh rì”… tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quýt giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của 1 mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế. Niềm vui như một vị thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời – vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh “thần Vui hằng gõ cửa” gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại Hi Lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên một câu thơ tuyệt bút: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian tháng giêng so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu.

Phải nói rằng, trong thơ Việt Nam, chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu. Xuân Diệu không lấy thiên nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp con người như ta vẫn gặp trong thơ cổ mà lại thấy vẻ đẹp con người làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhan sắc của Thúy Vân được Nguyễn Du miêu tả là: “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu thì: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Con người bao giờ cũng là điều tuyệt diệu. Cái hay, cái đẹp, cái mới của hồn thơ Xuân Diệu, có thể nói cái rất Xuân Diệu phần nào là ở đó. Khác với Nguyễn Du tả mùa xuân tươi đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên; khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa xuân đáng yêu là thế mà thi nhân chối bỏ gay gắt, quyết liệt:

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu

Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?

Với tôi, tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.

(Xuân)

Đối với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. Ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chế Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách nồng nhiệt, thiết tha. Có một cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống, có những sắc màu tuyệt diệu như vậy để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hòa vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!

Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng, hai cảm xúc trái ngược nhau: “sung sướng” – vội vàng”. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc hoa niên. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội vàng. Bởi vì sao? Bởi vì Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy sẽ ngắn ngủi biết bao, cho nên: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Xưa nay, người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi, chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã không còn. Ở đây, với sự nhạy cảm đến lạ lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống đến độ đắm say, Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân cả khi mùa xuân đang còn, ngay cả khi mùa xuân mới đến. Nhà thơ biết rằng mùa xuân sẽ trôi qua nhanh, mà hình như với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, nó còn trôi nhanh gấp bội, nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ đi qua, cái đang non trẻ, thắm tươi rồi sẽ già nua, tàn úa. Điều ấy có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với Xuân Diệu: “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất”. Câu thơ của Xuân Diệu thật là buồn bã, bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho mình: Mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua, mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời có ý nghĩa gì nữa. Điều quý giá nhất của cuộc đời, của đất trời, là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ. Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có từ ngàn xưa, không phải là một ý niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giới của Đường thi, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:

Ai người trước đã qua

Ai người sau chưa lạị

Ngẫm trời đất thật vô cùng

Riêng lòng đau mà lệ chảy.

(Đăng U Châu đài ca, bản dịch của Tương Như)

Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.

Con người khao khát vô tận nhưng cuộc sống lại có quy luật của nó, chặt chẽ vô cùng, nghiệt ngã vô cùng:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy, cái hữu hạn của con người càng nhỏ bé hơn nữa, nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ở đời, nhà thơ đã từng lí luận với mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi, mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí luận như thế, không những người ta không tự an ủi được mình, mà chỉ càng xót xa hơn cho cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý, chỉ đẹp khi con người có thể biết được, hưởng được cái mùa xuân ấy. Không có con người, hay con người không được hưởng, thì mùa xuân có đó mà làm gì? Bởi vậy, những câu thơ của Xuân Diệu chuyển sang một giọng buồn bã.

Trong khi đồng nhất hóa mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của quy luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chốn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa mà Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao?

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con. .

(Tự tình II)

Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuâng, tiếc cả đất trời” để Ịàm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa – Tần Thủy Hoàng, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận:

Nhủ rồi nhủ lại cầm tay

Bước đi một bước giây giây lại dừng.

(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)

Tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời Thề non nước, Tống biệt, Cảm thu,Tiễn thu cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm rớm vị chia phôi“, không gian “sông núi đều than thầm” đến “con gió xinh thì thào”, “chim đứt tiếng reo”… Cảm quan lãng mạn cùng hòa với suy tư về bản thân đã khắc họa độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Tất cả đều buồn bã, tất cả đều mất hết hương vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi” với “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn nỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam cả phong trào Thơ mới, chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha như Xuân Diệu. Cũng những nét ấy, sắc màu âm thanh ấy, ở đoạn trên náo nức, rạo rực là thế, mà ở đoạn này thì buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao, tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thấy rõ ràng mùa xuân đã mất, tuổi trẻ đã qua, nhà thơ đã kêu lên một cách tuyệt vọng, bật thành tiếng than não nuột: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại. Nỗi đau đớn phải thật chân thành để Xuân Diệu có tiếng kêu như thế. Còn làm được gì nữa bây giờ? Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và đời người cứ ngắn ngủi. Còn làm gì được nữa để biến cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian, với mùa xuân mãi mãi của đất trời? Chỉ còn một cách, ấy là biến cái hữu hạn về lượng thành ra cái vô hạn về chất, nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt, phải sống để thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đẽ, quý giá của đời sống, của mùa xuân, của tuổi trẻ. Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua, tuổi trẻ sắp hết.

Từ cảnh “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” (Giục giã) này trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.

Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.

Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quýt kia là sự cuồng nhiệt với đời:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấy nhau để tạo theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: “muốn ôm” “muốn riết” “muốn say”, “muốn thâu”; lại còn: “một cái hôn nhiều” chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Trong một dòng thơ, Xuân Diệu bắt đầu bằng từ “và” lại có đến ba từ “và” ở giữa câu thơ. Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, đến cuồng quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sống:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi

Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động: “ôm”, “riết” “say” “thâu” “hôn”, “chếnh choáng” “đã đẩy” “no nê”, ‘cắn”, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình. Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc, tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân, như một cái gì quý nhất, trọn vẹn, như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ.

Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và chàng thi sĩ choáng men say đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:

Trong hơi thở chót dâng trời đất

Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.

(Không đề)

Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: Phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về tấm lòng trẩn gian của một người thơ yêu đời mê đắm. Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si? Thơ Xuân Diệu – vội vã với nhịp đập của thời gian.


Lí luận văn học về bài thơ Vội vàng - Mẫu số 3

Khi chúng ta làm quen với một người lạ, cái để lại ấn tượng trong ta và cũng là cái quyết định xem ta có muốn thân thiết, hoặc tạo khoảng cách với họ, không chính là tính cách của người đó, tính cách là nét đặc trưng và là ấn tượng của mỗi người trong lòng người khác. Không những trong cuộc sống mà trong văn học cũng vậy, điều để lại ấn tượng và cảm tình đối với người đọc đó chính là phong cách nghệ thuật của tác giả. Nhà văn Nga Leptônxtôi đã từng nói rằng: “khi đọc xong tác phẩm văn học, hứng thú chủ yếu là tính cách tác giả được thể hiện trong đó”. Thật đúng như vậy, và điều này được thể hiện rõ ràng qua bài thơ “Vội Vàng” của Xuân Diệu, một bài thơ hay và mang lại nhiều rung cảm trong lòng người đọc.

Thông thường người ta hay nói đến tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học, nhưng ở đây nhà văn Leptônxtôi lại đề cập đến tính cách tác giả. Đây là cách nói mới mẻ và đầy đủ ý nghĩa, ta hiểu tính cách tác giả ở đây chính là phong cách nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ nhưng phong cách nghệ thuật ấy được hình thành nên từ lối sống quan niệm sống và ảnh hưởng bởi cuộc sống thực tại, sự trải nghiệm cuộc đời của người nghệ sĩ. Ý kiến của LepTônxtôi nhằm khẳng định vai trò và ý nghĩa của phong cách nghệ thuật trong sáng tác văn chương. Phong cách của người nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật là rất quan trọng, phong cách của nghệ sĩ chính là cái khác, cái nổi bật để tạo nên sự ấn tượng cho người đọc và để phân biệt với các nghệ sĩ khác. Mỗi con người sinh ra có một giọng nói riêng, mỗi loài chim có một tiếng hót riêng, từng loài hoa có vẻ đẹp riêng tư riêng và người nghệ sĩ cũng vậy cũng cần phải có phong cách của riêng mình, bởi đó chính là thước đo cho sự vươn tới thành công tạo ấn tượng trong lòng người đọc của nhà văn, nhà thơ thực thụ tài năng.

Sê khốp từng nói nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn học được,  vì sao lại như vậy? chúng ta biết rằng xã hội nào văn học đấy, cùng sống trong một hiện tượng xã hội, cùng nhận thức được vấn đề của sự việc, nếu mỗi người nghệ sĩ cũng không có phong cách riêng của mình tạo cho mình cách nhìn mới mẻ mẻ, không biết khám phá những điều chưa ai khám phá thì tác phẩm của họ sẽ chẳng có nét gì nổi bật, thậm chí bị chìm xuống so với những tác phẩm nghệ thuật khác, bởi độc giả không có chút ấn tượng gì với một tác phẩm không có sức hút không có điểm nhấn. Nhưng nếu trong rất nhiều tác phẩm cũng viết về một đề tài một nội dung nhưng người nghệ sĩ biết thể hiện phong cách nghệ thuật cá nhân thông qua tác phẩm, biết khai thác ở những góc độ mới nhìn nhận sự việc theo quan điểm của mình thì tác phẩm đó sẽ trở nên nổi bật so với các tác phẩm dùng để tải khác.

Trong phong trào thơ mới, trên văn đàn đã xuất hiện rất nhiều nhà thơ tài năng, các tác phẩm đặc sắc, nhưng trong tất cả các thi nhân của giai đoạn này thì Xuân Diệu được đắnh giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới bởi trong cùng một thời đại “lộn xộn”. đất nước bị thực dân Pháp xâm lược chúng mang những truyền thống văn hóa của chúng sang Việt Nam khiến đất nước rơi vào tình cảnh “Á, Âu, xã hội Tây, tàu nhố nhăng”. Trước tình cảnh này nhiều nhà thơ không giấu được buồn chán, nhiều người còn muốn thoát ly khỏi hiện thực cuộc sống để đến với chốn bồng lai. Ta biết đến Huy Cận với nỗi buồn “sầu vạn kỉ” trải dài trong tác phẩm nghệ thuật trước cách mạng tháng 8, ta biết đến Lưu Trọng Lư với mùa thu buồn trống vắng, Thế Lữ với một khối căm hờn và mong muốn được thoát khỏi phải sống tù túng, nhưng vẫn quẩn quanh trong bê cắt. Trong khi các nhà thờ khác đang buồn sầu chán nản thì Xuân Diệu đã thể hiện một cách nhìn một quan niệm sống hoàn toàn khác.

Là người mang trong mình những tri thức của cả văn hóa phương Đông lẫn phương tây Xuân Diệu là nhà thơ có tư tưởng thẩm mỹ kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Đặc biệt, ông có phong cách nghệ thuật hoàn toàn khác với những nhà thơ khác. Độc giả biết đến Xuân Diệu là một nhà thơ có nguồn cảm hứng mới lạ là, một người sôi nổi luôn thể hiện khao khát giao cảm, nồng cháy, cuồng say với cuộc đời. Xuân Diệu luôn ý thức được sự thật, sự của đời người vì vậy luôn có thái độ sống vội, sống tích cực. Ngoài ra điều nổi bật ở Xuân Diệu là người khác ấn tượng, đó là ông là nhà thơ của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ, luôn có cái nhìn “xanh non, biếc rờn” . Trước cuộc đời và chính cái tôi độc đáo ấy đã giải phóng ước lệ phi ngã của thơ ca cổ điển. Cá tính nghệ thuật này đã được Xuân Diệu thể hiện qua rất nhiều tác phẩm của mình, nhưng có lẽ bài thơ “Vội Vàng” là bài thơ thể hiện được phong cách và quan niệm sống của tác giả một cách rõ nét nhất. Bài thơ “Vội vàng” được rút ra từ tập thơ thơ viết năm 1938 và là bài thơ tiêu biểu trong tác phẩm mà Xuân Diệu viết trước cách mạng tháng 8.

“ Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong thơ mới thôi, thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu”. Có lẽ là vì sự táo bạo của ông được thể hiện trong thơ.

“ Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Trong cả một bài thơ theo thể 8 chữ, chỉ có 4 câu thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn, một thể thơ phù hợp cho việc thể hiện những cảm xúc về vần của Xuân Diệu. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là 2 động từ mạnh “tắt” và “buộc” đã làm nổi bật khao khát của nhà thơ. Đó là khao khát “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại màu hoa “cho màu đừng nhạt mất”, để giữ lại sắp thơm “cho hương đừng bay đi”. Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Ta cảm nhận được một dòng cảm xúc mạnh mẽ, một khát vọng sống mãnh liệt để được tận hưởng trọn vẹn cuộc đời, tuy nhiên có thể làm mọi thứ dù cho đó là những hành động rất táo bạo gần như không thể thực hiện được, (tắt nắng, buộc gió).

Từ khao khát, mãnh liệt được giao cảm với cuộc đời đó. Xuân Diệu đã kiếm tìm những điều tươi đẹp, đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới, tình tứ của mùa xuân thông qua những cảnh vật thiên nhiên.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của Yến Anh này đây khúc tình si

Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa”

Xuân Diệu luôn nhìn cuộc đời bằng cái nhìn “xanh non, biếc rờn”, phải là một người rất yêu đời yêu thiên nhiên thì nhà thơ mới có thể cảm nhận được từng chuyển biến của sự vật như thế. Xuân Diệu đã phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật đang vào độ thanh tân nhất, diễm lệ nhất. Một bức tranh hội tụ đầy đủ những hương thơm, ánh sáng và màu sắc âm thanh. Đặc biệt cảnh vật hiện lên đều có đôi có cặp: “ Ong Bướm, tuần tháng mật”, “ hoa, đồng nội xanh rì”. Thi sỹ như đang đứng trước bức tranh thiên nhiên mà chỉ trỏ: “Này đây hoa”, “ này đây lá”, “ này đây ánh sáng”. Nhà thơ đã mở lòng mình để cảm nhận và thưởng thức từ mọi giác quan như đang muốn ôm trọn sự sống ngồn ngộn vào lòng mình. Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ còn có cả Ong Bướm lượn tình tứ, ngọt ngào, hoa đua nhau khoe sắc tạo nên “đồng nội xanh gì”, cây cối đâm chồi nảy lộc lên những “cành tơ phơ phất”. Điểm vào bức tranh ấy là một ánh sáng lấp lánh, và tiếng hót của loài chim Yến anh đang ca “ khúc tình si”. Cuộc đời đang tràn đầy nhựa sống và thi nhân đang tận hưởng một cách say đắm. Khi các nhà thơ khác muốn thoát lên trên thoát lên chốn bồng lai thì Xuân Diệu đã bày tỏ rằng:

“ Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần

Chân hóa dễ để hút mùa dưới đất”

Một khát khao sống đến mãnh liệt, không muốn rời xa cuộc đời không muốn sống sống mờ nhạt, sống vô nghĩa.

“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời

Kẻ đựng trái tim trên máu đất

Hai tay chín móng bám vào đời”

Chẳng kiếm ở nơi đâu một hồn thơ dạt dào đến thế. Chính cảm hứng và trôi nổi rất “Tây” đó mà Xuân Diệu đã phải phá bỏ những ước lệ phi ngã cổ điển, khi mà trong thơ văn xưa thi nhân lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp

“Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

( Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nhưng với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực cho cái đẹp. Mùa xuân trong thơ xưa là:

“ Mùa xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

( Nguyễn Du)

Thì xuân diệu chỉ diễn tả hết tất cả vẻ đẹp, sự tươi ngọt đó chỉ qua một hình ảnh so sánh.

“ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Mai ước lệ phi ngã cổ điển đã được giải phóng. Ta cảm nhận được vẻ đẹp của mùa xuân như sự ngọt ngào của “ cặp môi gần” tình tứ.

Chính vì quá yêu cuộc sống, muốn được giao cảm với đời mà nhà thơ mang trong mình tâm trạng vừa sung sướng, vừa tiếc nuối vì sợ thời gian tuổi trẻ sẽ trôi đi mất, tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân.

“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Người ta nói Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ quả thật không sai, xuân diệu trọn viết về mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, chọn tuổi trẻ cái tuổi cuồng nhiệt và sôi nổi nhất của cuộc đời và tình yêu là tình cảm có nhiều cung bậc cảm xúc nhất của con người. Thật là tinh tế! nhà thơ quan niệm rằng:

“ Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Ta cảm nhận được sự hoài nghi băn khoăn và không giấu nổi sự lo lắng, vì quá yêu tuổi trẻ nên điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi tuổi già mau tới, bởi khi đã bước qua tuổi trẻ thì con người không thể quay lại ngược với thời gian được nữa đâu. Xuân Diệu đã lấy cả sinh mệnh cả thể của mình để trần tình làm thước đo của thời gian. Mà đó cụ thể là, quãng ngắn nhất của cuộc đời, tuổi trẻ:

“ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nếu bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Chữ xuân được lặp đi lập lại nhiều lần. xuân vừa là “xuân của đất trời” vừa là “xuân của tuổi trẻ”. Nhưng mỗi lần nhắc lại bắt gặp sự ngậm ngùi của thi nhân. Nhà thơ ý thức được sự phản chiếu của đời mình, ý thức được rằng mùa xuân của thiên nhiên thì vẫn hoàn toàn nhưng tuổi trẻ của con người thì chỉ đến một lần duy nhất. Ở cái tuổi trẻ đầy năng lượng đó, thi nhân muốn say đắm, muốn cuồng nhiệt đến mức cảm thấy lượng trời vẫn còn chật. Tác giả sử dụng hệ thống từ ngữ tương phản đối lập, “xuân tuần hoàn”, “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn”, “chẳng còn” làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian của cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, Mùa xuân có thể tuần hoàn, nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần đã qua là mãi mãi. Ta cảm nhận được những tiếng thở dài của thi nhân khi bâng khuâng tiếc nuối nghĩ về một ngày nào đó mình sẽ không còn có thể cảm nhận được bao thanh sắc của cuộc đời được nữa.

Vì suy nghĩ lo lắng rằng đời người là hữu hạn, cái gì rồi cũng sẽ qua đi, nên trong cảm nhận của mình thi nhân thấy vạn vật cũng như đang tiếc nuối chia ly.

“Mùi tháng năm đều sơm bị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hơn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”.

Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc là sự mất mát đối với từng cá thể. Nhà thơ có thể cảm nhận rõ được “mùi năm tháng”, và “vị chia phôi”, dạy lên khắp không gian là than thở, tiễn biệt. Phần đời sinh bệnh của cá thể đang ra đi không thể nào tái tạo được. Tác giả lo lắng tiếc nuối khi nghĩ về phần đời sắp sửa tàn phai của mình nên cũng cảm thấy vạn vật cũng đang than thở theo. Xuân Diệu quả thật ham sống đến cuồng nhiệt, một nét phong cách mà khó có thể tìm được ở những nhà thơ cùng thời khác. Ông yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời, vì vậy ông chỉ muốn nắm giữ tất cả tinh hoa trong cuộc sống là của riêng mình, một sự tham lam rất thú vị và đáng yêu.

Khổ thơ cuối cùng thể hiện rõ nét nhất niềm khát khao, sống mãnh liệt của thi nhân:

“Chẳng bao giờ tôi chẳng bao giờ nữa

Mau đi thôi mưa chưa ngã chiều hôm

Ta muốn ôm!

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn biết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước và cây và cỏ rạng”

Đây là đoạn thơ mang đậm chất phong cách của tác giả, khát khao hưởng thụ cuộc sống đến vội vã, vội vàng. Chỉ với 3 chữ “ Ta muốn ôm” được tách riêng ra thành một câu ta thấu hiểu hết được cái ước mong mãnh liệt của thi sĩ muốn dành hết cho mình cả sự sống mơn mởn”, những gì tươi nhất đẹp nhất ở cõi trần thế. Sau khi đã ôm trọn cả sự sống vào lòng khi ngân còn muốn “siết”, muốn “thâu”, muốn “say”. Chao ôi! dường như thi sĩ muốn mình phải sở hữu tất cả những gì tươi đẹp nhất. Một sự sống của mình không đủ thi nhân còn muốn ôm thêm những sự sống khác vào lòng. Đoạn thơ ngắn nhưng có 4 từ “ ta muốn” lập đi lập lại thể hiện nhịp điệu hối hả, chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít cuống quýt, một khát khao đến ham hở, cuồng nhiệt của nhà thơ, muốn “ say cánh bướm với tình yêu”, muốn “ thâu trong một cái hôn nhiều”, muốn hút hết vào lòng nhựa sống dạt dào để rồi:

“Cho chếnh chóang mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thành sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

Thi sĩ như con ong bay đi hút mật đến no say “ chếng choáng”. Say mê đến mạnh bạo muốn cắn vào xuân hồng cho thích thú cho thỏa mãn. Đây chính là đỉnh điểm khát khao cháy bỏng của nhà thơ, bao nhiêu niềm ham sống mong muốn được say mê với đời đã được nhà thơ thể hiện rõ nhất rất mãnh liệt và kết thúc là một cử chỉ thật đáng yêu: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

Phong cách của xuân diệu được tạo nên bởi lí tưởng sống, quan niệm sống tích cực của ông, ông luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non biếc rờn”. Ông yêu những vẻ đẹp tươi tắn của thiên nhiên, yêu mùa xuân, yêu cuộc đời. “ Cái quan trọng trọng tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ tài năng nào là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình” (Tuốc-ghê -nhép). Quả thật điều gây hứng thú cho người đọc chính là phong cách của nghệ sĩ. Bởi khi thưởng thức một tác phẩm đặc sắc, mang đậm phong cách của tác giả thì người đọc sẽ ấn tượng và cảm tình từ đó sẽ yêu quý và trân trọng những tác phẩm của người nghệ sĩ đó và nghệ sĩ sẽ thành công trong sự nghiệp sáng tác của mình, tạo được dấu ấn cho thời đại.

Nghệ thuật cũng là yếu tố tạo nên sự thành công cho tác phẩm, bên cạnh phong cách và tài năng của thi sĩ. Bài thơ mang đậm chất trữ tình lãng mạn, nhưng không quá bay bổng mà lại gần gũi thân quen, ngôn ngữ trong thơ giao hình ảnh kết hợp giữa chất cổ điển lẫn hiện đại thể thơ 8 chữ nhưng xen lẫn vài dòng thơ ngũ ngôn dòng thơ 3 chữ, 10 chữ tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Nhờ những nét nghệ thuật đặc sắc đó mà vội vàng trở thành bài thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới, được nhiều độc giả yêu quý.

Phong Cách độc đáo mới lạ, chính là bước đệm dẫn đến sự thành công của một nghệ sĩ, nhờ có tài năng và phong cách nghệ thuật đặc sắc Xuân Diệu đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng nhà thơ mới nhất trong phong trào thơ mới và giành được nhiều cảm tình từ độc giả ở mọi thế hệ.

icon-date
Xuất bản : 28/03/2022 - Cập nhật : 27/05/2024

Câu hỏi thường gặp

Đánh giá độ hữu ích của bài viết

😓 Thất vọng
🙁 Không hữu ích
😐 Bình thường
🙂 Hữu ích
🤩 Rất hữu ích
image ads