Có nhiều cách hiểu về tri thức. Theo Becerra, tri thức được định nghĩa là “quá trình giải mã các mối quan hệ giữa những khái niệm liên quan đến các lĩnh vực cụ thể. Tri thức được coi là một tài sản vô giá và là cơ sở để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho tổ chức.”
Theo World Bank, "kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên tri thức, coi tri thức là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế."
- Tri thức là yếu tố sản xuất quan trọng nhất, góp phần chính vào sự phát triển của xã hội.
- Lao động tri thức chiếm tỷ lệ lớn trong các hoạt động sản xuất.
- Ngành dịch vụ, đặc biệt là những lĩnh vực đòi hỏi nhiều tri thức, chiếm vai trò chính trong cơ cấu kinh tế.
- Công nghệ thông tin và truyền thông đóng vai trò quyết định.
- Công nghệ cao và thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là động lực chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Giáo dục giữ vai trò then chốt.
- Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng.
- Nền kinh tế hướng tới phát triển bền vững và thân thiện với môi trường.
Một số biểu hiện của nền kinh tế tri thức:
- Hoạt động sản xuất kinh doanh áp dụng nguyên liệu và năng lượng tự nhiên để tạo ra sản phẩm sạch, không gây ô nhiễm, đóng góp vào sự phát triển bền vững.
- Sản xuất sản phẩm dựa trên nhu cầu tiêu dùng, duy trì sự cân bằng giữa cung và cầu, hạn chế tình trạng tồn kho.
- Sự sáng tạo liên tục diễn ra, không phụ thuộc vào sự phát triển từ cái cũ.
- Quá trình nghiên cứu và sáng tạo luôn được đẩy mạnh, thúc đẩy công nghệ hiện đại.
- Công nghệ thực tế ảo được ứng dụng trong các lĩnh vực như học tập, thiết kế, xây dựng, kiến trúc, khoa học thực nghiệm, giúp tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí, đồng thời nâng cao năng suất lao động.
Một số ví dụ về các sản phẩm của kinh tế tri thức:
- Năng lượng tái tạo như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng từ thủy triều.
- Rô-bốt thông minh, chẳng hạn: rô-bốt phẫu thuật trong y tế, rô-bốt thu hoạch nông sản trong nông nghiệp, rô-bốt chăm sóc trẻ em.
- Phần mềm quản lý hồ sơ học sinh, theo dõi sự tiến bộ của học sinh trong lĩnh vực giáo dục.
I. Khái quát về nên kinh tế tri thức:
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. Hiện nay còn có những tên gọi và định nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức. Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), “ kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đói với sự phát triển kinh tế, tao ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. Các nước phát triển hiện nay đều chứa đựng trong nó nhiều yếu tố của nền kinh tế tri thức như nền công nghiệp công nghệ cao, lao động trí tuệ có chuyên môn cao, các thành phẩm và dự án công nghệ thông tin và khoa học…Vì vậy nền kinh tế là điều tất yếu và khách quan trong quy luật chung với tất cả các nước phát triển và đang phát triển hiện nay
II. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
- Nền kinh tế dựa trên tri thức và vốn con người: Một hệ thống kinh tế không dựa trên tri thức được coi là không thể tưởng tượng được. Nó mô tả quá trình tiêu dùng và các hoạt động sản xuất, thể hiện mức độ đáng kể của các hoạt động kinh tế cá thể trong các nền kinh tế phát triển hiện đại thông qua việc xây dựng một nền kinh tế toàn cầu tiên tiến và kết nối với nhau , nơi các nguồn tri thức và những người đóng góp quan trọng.
- Nền kinh tế dựa càng ngày càng nhiều vào các thành tựu khoa học - công nghệ. Theo Cổng thông tin điện tử Viện chiến lược và chính sách tài chính, Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa để phát triển kinh tế tránh tụt hậu…Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư khai thác ứng dụng những thành tựu mới của thời đại nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm….Như vậy, nước ta có cơ sở khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ : chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao. Các quyết sách kinh tế được tri thức hóa.
- Cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng lao động trí tuệ; sự hình thành của nền kinh tế tri thức mạnh mẽ đòi hỏi người lao động phải có khả năng liên tục học hỏi và áp dụng các kỹ năng của họ để xây dựng và thực hành kiến thức một cách hiệu quả. Điển hình như các nước phát triển sở hữu và thu hút rất nhiều lao động trình độ cao, có kỹ năng nước ngoài
- Cơ sở hạ tầng thông tin dày đặc và hiện đại: là khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn lực công nghệ thông tin và truyền thông ( ICT ) nhằm vượt qua rào cản về chi phí giao dịch cao và tạo điều kiện hiệu quả trong việc tương tác, phổ biến và xử lý các nguồn thông tin và tri thức.
III. Các biểu hiện của nền kinh tế tri thức
- Hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ áp dụng nguyên liệu và năng lượng tự nhiên tạo ra những sản phẩm sạch và không gây ô nhiễm môi trường. Từ đó tạo tiền đề phát triển bền vững.
- Sản xuất sản phẩm dựa theo nhu cầu của người tiêu dùng, luôn luôn có sự cân bằng giữa cung và cầu, hạn chế hàng tồn kho
- Cái mới luôn được sáng tạp liên tục chứ không phải từ cái cũ phát triển lên
- Có sử dụng ứng dụng công nghệ thực tế - ảo trong các hoạt động như học tập, thiết kế, xất dụng , kiến trúc, thực nghiệm khoa học,….giúp tiết kiệm thời gian, công dức và tiền bạc, đồng thời nâng cao năng suất lao động.
*Một số ví dụ về các sản phẩm ứng dụng của nền kinh tế tri thức:
+ Các nguồn năng lượng tái tạo, như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều…
+ Các loại robot thông minh, như: robot phẫu thuật ( trong lĩnh vực y tế ); robot thu hoạch nông sản ( trong lĩnh vực kinh tế )….
+ Các sản phẩm mềm quản lý hồ sơ học inh, theo dõi tiến độ của học sinh… ( trong lĩnh vực giáo dục ).