nêu những nguyên nhân thắng lợi tiêu biểu về mặt quân sự của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1946-1950)
Trả lời
Tổng hợp câu trả lời (1)
Như Quỳnh
02:01:57 05-Jan-2023
1. Nguyên nhân thắng lợi
Trước hết, sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Chỉ huy là nguyên nhân quyết định đến thắng lợi của mặt trận Hà Nội. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình, Đảng ta chỉ rõ: sự thật chứng tỏ rằng, thực dân Pháp định dùng vũ lực để buộc ta nhượng bộ, nhưng Tạm ước ngày 14-9-1946 là bước nhân nhượng cuối cùng, chúng đã buộc chúng ta phải đứng lên kháng chiến. Ngày 12-12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Đây là quyết định sáng suốt, kịp thời và thể hiện tính chủ động rất cao của Đảng ta; trong đó, chỉ rõ mục đích, tính chất và đường lối chung chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tiếp đó, ngày 13-12-1946, tức chỉ một ngày sau khi có Chỉ thị của Trung ương Đảng, Trung ương Quân uỷ, Bộ Tổng Chỉ huy đã triệu tập Hội nghị các chính ủy (từ Chiến khu 4 trở ra) để thảo luận, thống nhất công tác chuẩn bị chiến đấu và Hà Nội được xác định là chiến trường trung tâm của cả nước. Theo đó, Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Chỉ huy phải trực tiếp chỉ huy Chiến khu XI1; nghiên cứu phương án tác chiến, tiến hành chuẩn bị mọi mặt để chủ động đánh địch tại Hà Nội.
Cùng với đó, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận, Ủy ban kháng chiến Thành phố,… để trực tiếp lãnh đạo công cuộc kháng chiến ở Thủ đô. Điều đó thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, kịp thời của Đảng đối với chiến trường trọng điểm, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Đặc biệt, từ khi Hà Nội bước vào chiến đấu, Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Tổng Chỉ huy đã trực tiếp ngày đêm theo dõi tình hình chiến sự và chỉ đạo chặt chẽ kế hoạch, phương án và tổ chức lực lượng đánh địch, v.v. Nhờ đó, mặc dù quân số ít, vũ khí trang bị thô sơ, phải đương đầu với đội quân nhà nghề, song quân và dân Thủ đô đã chiến đấu với thái độ bình tĩnh, tự tin, mưu trí, sáng tạo, tiêu diệt, tiêu hao nhiều địch và làm phá sản mưu đồ vô hiệu hóa cơ quan đầu não của ta. Đảng uỷ, Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã có nhiều chủ trương về tổ chức, xây dựng và phối hợp chặt chẽ lực lượng trong và ngoài Thành phố, thực hiện trong đánh, ngoài vây, dựa chắc vào hậu phương (ngoại thành cùng các tỉnh lân cận), đảm bảo sức người, sức của để đánh địch liên tục, dài ngày; đồng thời, tận dụng lợi thế kiến trúc của Thủ đô để tổ chức trận địa liên hoàn, hiểm hóc, ngăn chặn địch. Có thể nói, đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thắng lợi của Mặt trận Hà Nội, điều mà kẻ địch không ngờ tới, tạo thuận lợi để cả nước bước vào chiến tranh.
Hai là, triển khai thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, vững chắc có chiều sâu để đánh địch có hiệu quả. Bước vào kháng chiến toàn quốc, lực lượng vũ trang Hà Nội chỉ có 5 Tiểu đoàn; 8 Trung đội công an xung phong, 1 Đại đội tự vệ chiến đấu,… với vũ khí, trang bị thô sơ, chủ yếu là lựu đạn và dao kiếm, nhưng phải đối phó với trên 6.500 quân Pháp, được trang bị xe tăng, đại bác và nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại. Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội chủ trương dựa vào nhân dân để vừa đánh, vừa xây dựng, phát triển lực lượng, thực hiện càng đánh càng mạnh. Trong đó, việc gấp rút triển khai thế trận chiến tranh nhân dân được Ủy ban Kháng chiến Thành phố hết sức chú trọng. Theo đó, các đơn vị lực lượng vũ trang được bố trí phân tán ở các địa bàn trọng yếu, làm nòng cốt để toàn dân đánh giặc; hình thành thế trận trong đánh, ngoài vây, trong ngoài cùng đánh; phối hợp với các lực lượng, đoàn thể,… hỗ trợ, chi viện cho nhau để tiêu hao, tiêu diệt quân địch và giam chân chúng trong Thành phố. Cùng với đó, các đoàn thể quần chúng, như: công nhân, thanh niên, phụ nữ, trí thức, tiểu tư sản, các nhà công thương yêu nước,… được tổ chức, củng cố và phát triển. Liên hiệp Công đoàn Hà Nội được thành lập và đã tập hợp hầu hết mọi tầng lớp lao động, nhiều công đoàn nghề được ra đời để tham gia đánh Pháp. Đáng chú ý là Mặt trận Liên Việt Thủ đô ra đời đã lôi cuốn nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước tham gia kháng chiến. Tổ chức cơ sở đảng được xây dựng ở nhiều nhà máy, xí nghiệp, đơn vị vũ trang, các khu dân cư,… để lãnh đạo quần chúng đánh giặc. Đặc biệt, lực lượng nòng cốt đánh địch tại Hà Nội là Trung đoàn Thủ đô được thành lập trên cơ sở tập hợp cả nam, nữ thanh niên, thiếu niên. Họ là những công nhân, học sinh, sinh viên, thầy giáo, nhà văn,... tất cả đều chung một lòng “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Bên cạnh đó, nhân dân ngoại thành cũng được tuyên truyền, tổ chức chặt chẽ để tham gia trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tiêu biểu là huyện Thanh Trì đã huy động 150 tấn lương thực cho kháng chiến; đội nữ vận tải Hồng Hà không quản ngại khó khăn, gian khổ, vận chuyển lương thực, thực phẩm cung cấp cho lực lượng vũ trang Liên khu 1; nhân dân nội, ngoại thành hăng hái đào hàng chục ki-lô-mét giao thông hào, hàng nghìn hố chiến đấu, đục thông tường các dãy phố tạo thế chiến đấu liên hoàn, v.v. Khắp các thôn xã đều thực hiện tiêu thổ kháng chiến, làm vườn không nhà trống, sẵn sàng đối phó với địch. Nhờ đó, Hà Nội thực sự trở thành thế trận chiến đấu, mà ở đó mỗi nhà là một pháo đài, mỗi phố là một chiến tuyến, tạo ra thế chủ động đánh địch ở khắp nơi, buộc địch phải căng kéo đối phó với ta cả trong và ngoài Thành phố.
Ba là, sự phối hợp chiến đấu có hiệu quả của cả nước đối với Mặt trận Hà Nội. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Chỉ huy, quân và dân các thành phố, thị xã từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, như: Hải Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng đều kịp thời, đồng loạt nổ súng tiến công địch, phối hợp chiến đấu chặt chẽ với Hà Nội, lập được nhiều chiến công xuất sắc. Quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ phối hợp với mặt trận phía Bắc đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá tan âm mưu bình định của địch. Phối hợp chiến đấu với Hà Nội còn có các địa phương lân cận, nhất là hai địa bàn: Hà Đông và Sơn Tây. Đây là hậu phương trực tiếp của Hà Nội. Tại đó, các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy của Trung ương và Hà Nội (khi di chuyển tới) được bảo vệ an toàn để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo cả nước nói chung, Hà Nội nói riêng tác chiến. Nhân dân Hà Nội tản cư phần lớn ra hai tỉnh này và được nhân dân tận tình giúp đỡ. Đồng thời, Trung đoàn 13 (Hà Đông), Trung đoàn 9 (Sơn Tây) còn kịp thời tăng cường lực lượng cho Hà Nội chiến đấu.
Như vậy, bằng sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ, có hiệu quả của quân và dân cả nước với Mặt trận Hà Nội, đã buộc quân Pháp rơi vào thế bị động cả về chiến lược và chiến thuật, chịu nhiều tổn thất và không đạt được mục tiêu đề ra. Trong sự phối hợp tổng thể đó, Hà Nội là chiến trường trọng điểm và trở thành biểu tượng Kháng chiến và niềm tin vào thắng lợi của toàn dân. Trong thế trận chiến tranh nhân dân, Hà Nội phối hợp chiến đấu với cả nước, cả nước phối hợp chiến đấu với Hà Nội, đẩy quân Pháp rơi vào thế bị động, sa lầy và thất bại.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?