Có ý kiến cho rằng lặng lẽ sa pa viết về những con người vô danh
Trả lời
Tổng hợp câu trả lời (1)
Đặng Ngọc Anh
03:07:54 31-Jul-2021
Bài văn số 1
Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thàng Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt đầu viết văn trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu V, Nguyễn Thành Long được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và kí đáng chú ý trong những năm 60-70 với cả gần chục tập sách đã in. Ông là một cây bút cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất chú trọng thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều sáng tác của Nguyễn Thành Long là kết quả trực tiếp của những chuyến "thâm nhập thực tế" như thế, nhưng truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lại là một trường hợp đặc biệt.
Mùa hè năm 1970 theo lời kể tác giả, ông cùng một người bạn văn quyết định đi nghỉ ở Sa Pa. Vì thế mà nhà văn không vào các cơ quan, đơn vị của địa phương để tìm hiểu thực tế hay tìm gặp những "điển hình tiên tiến" như những lần đi thực tế của các văn nghệ sĩ. Nhưng điều may mắn lại chính là do chỗ không lăm le tìm hiểu thực tế theo lối khá công thức lúc bấy giờ của giới văn nghệ sĩ mà Nguyễn Thành Long đã bắt gặp câu chuyện về người thanh niên công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn một mình giữa lặng lẽ của Sa Pa. Bằng sự nhạy cảm nghề nghiệp, nhà văn đã nắm lấy chất liệu thực tế ấy, bồi đắp thêm bằng sức tưởng tượng sáng tạo và truyền vào đấy những suy ngẫm, quan niệm về đời sống, về nghệ thuật của một cay bút từng trải làm nên một truyện ngắn hay.
Thành công của Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn này, có lẽ trước hết là đã tạo dựng một chất thơ trong sáng, làm nên không khí và sắc điệu riêng của tá phẩm được toát lên từ sự hài hòa giữa phong cảnh thiên nhiên đẹp lộng lẫy và mơ màng của Sa Pa với vẻ đẹp trong những suy nghĩ, cảm xúc và công việc của các nhân vật cùng mối quan hệ của họ. Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản, xoay quanh tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư vừa mới ra trường với anh thanh niên một mình sống và làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Cuộc gặp gỡ chỉ trong chốc lát nhưng đã đủ để nhân vật chính xuất hiện gây được ấn tượng và gợi ra những suy nghĩ, cảm xúc với nhiều âm vang ở những nhân vật khác trong truyện. Sáng tạo được tình huống ấy và lựa chọn được nhiều điểm nhìn trần thuật từ cái nhìn và tâm trạng người họa sĩ già - Một nghệ sĩ nhiều từng trải và chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, thì có thể nói tác giả đã nắm chắc được sự thành công của đứa con tinh thần của mình.
Truyện có 4 nhân vật: Bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên. Họ thuộc hai thế hệ già và trẻ, nghề nghiệp khác nhau nhưng ở họ có rất nhiều điểm rất gần gũi mà trước hết là những nét đẹp trong suy nghĩ, trong thái độ đối với cuộc sống với công việc và với những người khác. Những nhân vật ấy (và ả những nhân vật chỉ được nói đến trong lời kể của người thanh niên) đều không được tác giả đặt tên. Điều này hẳn không phải là không có dụng ý của tác giả: Nhà văn muốn thể hiện họ là những con người bình thường, bình dị trong cuộc gặp gỡ bất ngờ trện hành trình của một chuyến xe khách, như là chúng ta có thể gặp những con người như thế ở nhiều nơi trên đất nước. Những nhân vật trong truyện ít nhiều đều có màu sắc lý tưởng, nhưng họ cũng những hình ảnh những con người mang vẻ đẹp của một thời kì lịch sử.
Nhân vật chính của truyện - anh thanh niên chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng chói nổi bật nhất của bức tranh mà tác giả tập trung thể hiện. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của anh, tác giả đã qua lời bác lái xe để giới thiệu về anh: Hai mươi bảy tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn sáu trăm mét, rất "thèm người" ... Cách giới thiệu ấy đã gây hứng thú và chuẩn bị tâm thế cho nhân vật ông họa sĩ trược cuộc gặp gỡ. Khi xe dừng, người thanh niên xuất hiện với dáng vẻ nhanh nhẹn tự nhiên và vóc dáng hơi nhỏ bé dường như không ó gì đặc biệt. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người một mình lặng lẽ của thiên nhiên. Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở những nhân vật này không phải là những công việc khó khăn đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, mà là một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao Yên Sơn quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cay mây núi. Cái khó khăn, thách thức lớn nhất với anh chính là sự cô độc. Cái gì giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy?
Trước hết đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu với công việc. Công việc hằng ngày của anh "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là cần thiết và có ích cho mọi người, nó gắn liền anh với mọi người và cuộc sống chung của đất nước. Anh yêu công việc của mình: "Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ nếu cháu cất nó đi, cháu buồn đến chết mất".
Nét đẹp ở nhân vật này không chỉ là ở cách sống có lí tưởng mà còn ở những suy nghĩ sâu sắc về công việc và cuộc sống. Chẳng hạn, về sự cô độc, anh đã nghĩ thế nào?
"Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn lỹ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, ciệc của cháu gắn liền với việc của bao an hem, đồng chí dưới kia". Còn đây là về nỗi "thèm người" - như cách nói của bác lái xe, anh nghĩ "Con người thì a mà chả "thèm" hả bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?" Những nỗi "nhớ người" với anh, quyết không thể là nỗi nhớ "phồn hoa đô thị".
Trong cuộc sống lẻ loi của mình, anh còn tìm thấy một nguồn vui, đó là sách, mà anh thấy lúc nào đọc cũng như có người bạn để trò chuyện.
Chính vì tất cả những điều trên mà cuộc sống của người thanh niên ấy giữa núi cao mây mù không buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp và chủ động: trồng hoa, trồng rau, nuôi gà, đọc sách ngoài những giờ làm việc có mối giao lưu thân thiết với bác lái xe, những cuộc gặp gỡ với mọi người. Ở người thanh niên ấy còn có mọt nét rất đáng mến nữa là sự cởi mở, chân thành với mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với người khác. Tình thân của anh với bác lái xe, thái độ ân cần, nhiệt thành, sự săn sóc chu đáo của anh với ông họa sĩ và cô gái mới lần đầu gặp gỡ đã nói lên nét đáng mến ấy ở anh.
Trong truyện, ngoài nhân vật người thanh niên, các nhân vật phụ (bác lái xe, ông họa sĩ già, ô kĩ sư mới ra trường ...) không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm rõ nét hơn cho nhân vật chính, mà còn làm phong phú và sâu hơn cho chủ đề truyện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Tác giả đã hầu như "nhập" vào cái nhìn và tâm trạng của nhân vật này để trần thuật, bao gồm cả quan sat, miêu tả và suy ngẫm, bình luận. Qua cái nhìn của ông họa sĩ, chân dung nhân vật chính được hiện ra rõ nét hơn, đẹp hơn và khơi gợi những suy ngầm về cuộc đời con người và nghệ thuật.
Ngay những phút đầu gặp gỡ với người thanh niên, bằng sự từng trải của một người nghệ sĩ, ông xúc động đến bối rối vì đã "băt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác". Và với ông "người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá: với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh và những điều anh suy nghĩ. Và đúng như người họa sĩ đã nghĩ: "Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác". Ví như, từ câu chuyện với người thanh niên, ông họa sĩ đã suy nghĩ về nghệ thuật với cả sức mạnh và sự bất lực của nó so với cuộc đời, về con người và mảnh đất Sa Pa.
Còn với cô kĩ sư trẻ mới ra trường thì cuộc gặp gỡ với anh thanh niên cùng với những điều anh kể đã khiến cô bàng hoàng, "cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới của những con người như anh". Quan trọng hơn nữa, cô hiểu và tin hơn vào con đường mà cô đã lựa chọn.
Như vậy qua cảm xúc và suy nghĩ của các nhân vật khác, hình ảnh người thanh niên như được soi rọi dưới một ánh sáng trong trẻo và rực rỡ khiến nó đẹp hơn, ánh lên nhiều màu sắc hơn. Đó là cái thủ pháp mà người xưa gọi là "vẽ mây để nảy trăng".
Lặng lẽ Sa Pa chưa phải là một truyện ngắn xuất sắc. Có thể ra những chi tiết chưa thật đắt, những chỗ tác giả đã nói thay nhân vật, phát biểu quá lộ liễu về chủ đề của tác phẩm. Nhưng dù sao truyện ngắn này cũng là một thành công đáng ghi nhận của cây bút truyện ngắn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy cũng gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.
Bài văn số 2
A.Einstein đã từng nói rằng: “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”. Câu nói ấy khiến ta phải trăn trở khôn nguôi về trách nhiệm, bổn phận của bản thân đối với mọi người và với cuộc đời. Đồng thời lời nó ấy cũng gợi nhắc cho ta nhớ đến hình ảnh anh thanh niên âm thầm cống hiến cho đất nước cho tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa. Có lẽ anh là minh chứng tiêu biểu nhất cho lối sống hi sinh, phục vụ cộng đồng, tổ quốc.
Anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, quê ở Lào Cai, công việc của anh là làm vật lí địa cầu và khiêm khí tượng thủy văn. Công việc của anh không ở đâu xa mà ngay ở trong tỉnh đó là làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao hơn 2000m. Người anh bé nhỏ, thấp, nhưng ẩn sau đó là một người hết sức kiên cường, có trách nhiệm trong công việc.
Trước hết, anh thanh niên bị đặt vào các thử thách khắc nghiệt. Anh có nhiệm vụ “đo gió, đo mưa, đo nắng tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hàng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Công việc của anh nhìn tưởng rất đơn giản nhưng đó thực sự là một thử thách, bởi công việc ấy đòi hỏi sự chính xác cao, thức dậy đúng giờ, ngay cả lúc một hai giờ sáng – trời rét căm căm, mưa tuyết thấu da vẫn phải dậy để đo cho đúng giờ ốp.
Là một con người trẻ tuổi, giàu nhiệt huyết và lòng yêu cuộc sống nên khi anh thanh niên phải một mình sống ở nơi heo hút, hẻo lánh cũng là một thử thách rất lớn. Không chỉ sống ở nơi heo hút, thèm người đến nỗi phải lấy khúc cây chắn ngang đường, mà công việc của anh còn có phần đơn điệu, giản đơn. Thử thách lớn nhất với anh là vượt qua được nỗi cô đơn, sự vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi non không có lấy một bóng người. Nhưng bằng lòng nhiệt huyết, bằng tình yêu công việc và tinh thần trách nhiệm anh đã vượt qua mọi thử thách đó.
Những khó khăn kia chỉ như một thứ thuốc thử, để qua đó bộc lộ những phẩm chất và suy nghĩ đẹp đẽ, tích cực của anh thanh niên. Để vượt qua được thử thách mưa gió phải đi đúng giờ ốp thì trong anh có lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc cao. Bản thân anh hiểu rằng công việc của mình tuy nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa rất lớn đối với sản xuất và chiến đấu của đất nước. Bởi vậy, dù làm việc một mình, không ai thúc ép nhưng anh thanh niên vẫ luôn tự giác, tận tâm trong công việc. Trong những năm anh làm việc, anh chưa từng một lần báo sai giờ ốp, dù hôm đó là ngày mưa lạnh cóng, tuyết phủ kín trời anh vẫn không ngần ngại xách chiếc đèn bão đi đo.
Anh yêu công việc của mình, coi nó như một người bạn: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Trong lời tâm sự của anh vừa có sự say sưa, vui sướng vừa có cả sự tự hào. Những lời tâm sự ấy rất đỗi giản dị, chất phác và vô cùng hồn nhiên đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách của anh. Và anh sẽ càng cảm thấy vui hơn khi thấy công việc của mình giúp ích cho đất nước: với đám mây khô anh phát hiện được đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên cầu Hàm Rồng. Quả thật đối với anh, lao động, làm việc đã trở thành niềm vui và lẽ sống trong cuộc đời. Với mục tiêu và động cơ làm việc đúng đắn, phục vụ cho nhân dân, đất nước, người đọc cũng phải thốt lên rằng “người con trai ấy đáng yêu thật”.
Để vượt qua nỗi cô đơn, anh đã tạo cho mình một cuộc sống nề nếp, văn minh và đầy thơ mộng. Sống một mình trên đỉnh núi cao nhưng anh đã sắp xếp cho bản thân một cuộc sống hết sức ngăn nắp, sạch sẽ: “căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Mọi thứ đều được kê một cách ngăn nắp, còn cuộc sống của anh được thu lại một góc nơi trái gian với chiếc giường đơn con con, một chiếc bàn học nhỏ và một chiếc giá sách. Sống một mình nhưng anh luôn có ý thức làm giàu tri thức của bản thân bằng cách nhờ bác lái xe mua hộ. Đối với anh, sách là người bạn giúp anh vượt qua nỗi cô đơn, buồn tẻ. Sách cũng là người bạn giúp anh thanh lọc tâm hồn và kết nối với thế giới bên ngoài.
Ngoài ra, để cuộc sống thêm phần vui tươi, lãng mạn anh cũng còn trồng những khóm hoa xinh xắn ngay trước nhà, với đủ hương thơm màu sắc. Và một đàn gà vừa phục vụ cuộc sống, vừa làm cho cuộc sống bớt phần tẻ nhạt. Anh thanh niên không chỉ ngày ngày lo nghĩ đến công việc mà con là người tự biết làm cho cuộc sống vật chất và tinh thần của mình thêm phần phong phú, thú vị.
Ngoài ra, ở người thanh niên này ta cũng thấy anh có những phẩm chất rất đáng tự hào, là sự cởi mở, chân thành, yêu quý và quan tâm những người xung quanh, một củ tam thất cho vợ bác lái xe, một giỏ trứng, một bó hoa tươi đã giúp cô kĩ sư thêm phần tự tin vào con đường mình đã chọn. Không chỉ vậy anh còn là người hết sức khiêm tốn, thành thực, anh cho rằng những đóng góp của mình còn hết sức nhỏ bé. Khi bác họa sĩ vẽ chân dung anh sẵn sàng giới thiệu những người anh cho là xứng đáng được vẽ hơn.
Chỉ bằng vài nét phác họa hết sức đơn giản, bằng cuộc trò chuyện ngắn ngủi, nhưng khoảnh khắc ấy cũng đủ để người đọc thấy được vẻ đẹp phẩm chất và tinh thần của anh thanh niên. Anh sống đúng như những gì A.Einstein đã quan niệm, cho đi là mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Anh thanh niên là gương mặt tiêu biểu cho những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
5