Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật phủ định để khẳng định, nói không để khẳng định có : có nỗi niềm bâng khuâng thương nhớ. Khổ thơ sử dụng nhiều vần ong, có tới mười bốn vần (không, sông, sóng, lòng, trong…) tạo nên âm hưởng hình ảnh những con sóng lòng đầy xáo động xao xuyến.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng….
- Li khách ! Li khách ! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Bài thơ có hai nhân vật là nhân vật “ta” tức là người đưa tiễn và người ở lại, nhân vật thứ hai là “người” tức là li khách, người lên đường vì “chí nhớn”. Người ở lại được xem là hình tượng tác giả, là chữ ta trong toàn bài thơ. Hai nhân vật kẻ ở lại và người ra đi cùng tồn tại trong suốt bài thơ, vì thế khám phá tâm trạng li khách có mối quan hệ gắn bó mật thiết với tình cảm nhân vật “ta”. Tác giả tập trung khắc hoạ hình tượng và tâm trạng li khách vì thế nhân vật càng ngày càng hiện lên cụ thể, sinh động, toàn vẹn. Vẻ bề ngoài li khách tỏ ra dửng dưng lạnh lùng, gạt phăng những tình cảm riêng tư, kiên quyết dứt khoát lên đường, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng trong lòng thì đầy tâm sự. Nhằm tô đậm và làm nổi bật ý chí của li khách, tác giả cường điệu hoá :
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Nhưng đối lập với con người bên ngoài cố tỏ vẻ cứng cỏi lạnh lùng, trong lòng người li khách đầy dằn vặt, day dứt, lưu luyến đau khổ khi phải ra đi. Tâm sự đó được khéo léo thể hiện qua cảm nhận của người bạn tri âm:
Ta biết người buồn chiều hôm trước…
Ta biết người buồn sáng hôm nay…
Thì ra nỗi buồn của li khách cũng dằng dặc theo thời gian, đó là nỗi lo lắng, thương yêu của người ra đi với gia đình :
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Hình ảnh so sánh “Một chị hai chị cùng như sen – Khuyên nốt em trai dòng lệ sót” trong bài thơ đã gợi rất nhiều liên tưởng khác nhau. Trước hết nó thể hiện nỗi lo của người ra đi về hai người chị, vừa để nhấn mạnh sự níu giữ bằng mọi cách của người ruột thịt. Hai từ nốt trong bốn câu thơ như là hi vọng cuối cùng của người chị đối với người em. Họ muốn người em không ra đi hoàn toàn vì tình yêu thương, bởi lẽ họ chưa thể hiểu hết lí tưởng của người li khách. Li khách bị níu giữ từ mọi phía: mẹ già, hai chị yếu đuối tội nghiệp và cả đứa em nhỏ ngây thơ, họ đã can anh đến hết lời, họ đã khóc đến cạn nước mắt. Mẹ già thì mong nhớ, em nhỏ thì buồn thương. Hình ảnh:
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Như xoáy sâu vào trái tim người ra đi, hình ảnh em nhỏ ngây thơ là sự níu giữ mạnh nhất đối với người ra đi. Tác giả cố ý tô đậm sự níu giữ của người thân để bộc lộ mâu thuẫn giữa vẻ ngoài và tâm trạng bên trong của li khách. Tuy mâu thuẫn nhưng nhất quán, nhất quán ở chỗ tác giả vừa tô đậm chí nhớn vừa bộc lộ tình cảm sâu sắc của li khách, li khách càng bị níu giữ thì vẻ đẹp ý chí càng hiện rõ, li khách càng day dứt dằn vặt càng chứng tỏ bề sâu của tình cảm. Có thể nói, li khách là hình tượng của văn chương lãng mạn. Về giọng điệu, nhân vật “ta”- cái tôi trữ tình nhà thơ, người ở lại nói với người ra đi, nó khác hẳn lời người đi nói với người ở lại như Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu. Tống biệt hành có nhiều câu thơ là lời trực tiếp của người tiễn đưa. Nhưng lại có nhiều câu thơ chỉ mang tính chất chuyển đổi giữa người ở lại và người ra đi, khổ thơ cuối cùng cũng có sự chuyển đổi giọng điệu tài tình như vậy :
Người đi? ừ nhỉ, người đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Câu thơ “Người đi ? ừ nhỉ người đi thực” là giọng điệu người đưa tiễn. Cái hay là ở chỗ nó lột tả được hai mặt của cảm xúc: người đưa tiễn vừa cảm phục, ngưỡng mộ chí nhớn và quyết tâm lên đường của li khách nhưng mặt khác lại muốn níu kéo bạn ở lại. Chẳng ai muốn có những cuộc chia li. Trong sâu kín nhất của tình cảm có lẽ người đưa tiễn thầm mong đến phút cuối cùng li khách sẽ thay đổi, sẽ nao núng ý chí quyết tâm, nhưng sự thật là li khách đã lên đường. Cho dù nhân vật “ta” đã biết rất rõ việc ra đi của bạn, đã theo dõi những trạng thái cảm xúc và ý chí quyết tâm của li khách “từ chiều hôm trước, sáng hôm nay” mà li khách lên đường vẫn không tránh khỏi bàng hoàng, hụt hẫng (ừ nhỉ? Người đi thực).
Hai từ thà coi được lặp lại liên tiếp ở ba câu thơ là hai từ rất nhạy cảm, nó dễ gây ra những phản ứng với người đọc. Chủ thể của thái độ “thà coi” là ai ? Muốn khẳng định giọng điệu của ba câu thơ cuối ta cần xem xét hai cách hiểu thường được đưa ra bàn cãi mới đây. Cách hiểu thứ nhất cho rằng li khách quyết ra đi cho nên coi mẹ, chị, em của mình giống như chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu để khỏi bị day dứt cõi lòng. Nhưng phần lớn ý kiến bác bỏ cách hiểu như trên và khẳng định đây là lời của li khách muốn nói với người thân xin hãy coi li khách như một cái gì hết sức nhỏ bé, vụt thoáng qua trong gia đình rồi biến mất để mà đừng có luyến tiếc đau khổ nữa. Nếu cho rằng li khách coi mẹ, chị, em của mình tựa như chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu để tô đậm chí lớn và quyết tâm ra đi thì ở phần đầu bài thơ ý nghĩa này đã được tô đậm rồi. Hơn nữa, nếu hiểu ý thơ theo cách thứ nhất là vi phạm tính chất nhân bản, vi phạm thô thiển tình cảm nhân đạo của con người, hiểu như thế sẽ nghèo nàn sắc thái thẩm mĩ của bài thơ. Hình ảnh li khách sẽ trở thành phi nhân tính và không thật, không nhất quán về tâm trạng và tình cảm. Một người vô tâm với gia đình và người thân thì không thể là người sâu sắc, càng không thể là người có lí tưởng cao đẹp. Mặt khác ba hình ảnh thơ “chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu” đều mang tính chất chuyển động nên nó gần gũi tương đồng và gợi mối liên tưởng với người ra đi. Ta đã gặp hình ảnh thơ giống như vậy khi viết về người ra đi trong câu thơ của Nguyễn Bính :
Cha đừng tiếc, mẹ đừng thương
Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi.
(Hành quân ngang)
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?