logo

Ôn tập phần Tập làm văn (tiếp theo)


Giải VBT Ngữ văn 9 bài Ôn tập phần Tập làm văn (tiếp theo)

Câu 7 (trang 145 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Các nội dung văn bản tự sự đã học ở lớp 9 có gì giống và khác so với các nội dung về kiểu văn bản này đã học ở những lớp dưới?

Lời giải

– Giống: Đều lấy tự sự là phương thức biểu đạt chính.

– Khác: ở các lớp dưới, khi phân tích tác phẩm cũng như khi học ở phân tích Tập làm văn, lấy sự kiện và chi tiết làm nội dung chính. Còn lên lớp 9, ngoài nội dung đó, văn tự sự còn có sự kết hợp giữa yếu tố miêu tả (tả cảnh, chân dung nhân vật, miêu tả nội tâm nhân vật), nghị luận, độc thoại, đối thoại, người kể chuyện.

Câu 8 (trang 146 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn gọi đó là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất không?

Lời giải

- Các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận trong văn bản lự sự chỉ chiếm phần phụ, phần chính vẫn là kể nên vẩn gọi đó là văn bản tự sự.

- Các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận có tác dụng làm cho văn bản tự sự thêm đa dạng trong cách biểu hiện.

- Hiếm có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất.

Câu 9 (trang 146 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu (x) vào các ô trống mà kiểu văn bản chính có thể kết hợp với các yếu tố tương ứng trong nó (chẳng hạn tự sự có thể kết hợp với miêu tả thì đánh dấu vào ô thứ hai).

Lời giải

STT

Kiểu văn bản chính

Các yếu tố kết hợp với văn bản chính

Tự sự

Miêu tả

Nghị luận

Biểu cảm

Thuyết minh

Điều hành

1

Tự sự

 

x

x

x

x

 

2

Miêu tả

x

 

x

x

x

 

3

Nghị luận

x

x

 

x

x

 

4

Biểu cảm

x

x

x

 

 

 

5

Thuyết minh

x

x

x

 

 

 

6

Điều hành

 

 

 

 

 

 

Câu 10 (trang 147 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bao giờ cũng phân biệt rõ bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, và Kết bài. Tại sao bài tập làm văn tự sự của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu?

Lời giải

- Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bao giờ cũng phân biệt rõ bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài vì có khi đó chỉ là một đoạn trích từ một văn bản hoàn chỉnh; có khi không có phần Mở bài, Kết bài là do dụng ý nghệ thuật của người viết. Tuy nhiên, phần Thân bài không thể thiếu.

- Bài tập làm văn tự sự của học sinh vẫn phải có đủ ba phần bởi vì khi học, học sinh phải luyện tập bố cục cơ bản của một bài văn. Khi có kĩ năng tốt thì mới có thể sáng tạo, thay đổi bố cục.

Câu 11 (trang 147 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn có giúp được gì trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn không? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.

Lời giải

Những kiến thức và kĩ năng của phần Tập làm văn giúp ích rất nhiều cho việc học các văn bản tự sự trong phần Đọc – hiểu văn bản vì nó cung cấp cho ta những khái niệm có tính công cụ, để từ đó ta đi sâu phân tích các nội dung ý nghĩa cũng như vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm.

Ví dụ: Các yếu tố độc thoại, độc thoại nội tâm giúp ích rất nhiều cho việc phân phân tích tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – Kim Lân.

Câu 12 (trang 148 VBT Ngữ văn 9, tập 1):

Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phần Đọc – hiểu văn bản và Tiếng Việt tương ứng đã giúp em những gì trong việc viết bài văn tự sự? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.

Lời giải

Những kiến thức và kĩ năng về tác phẩm tự sự của các phần Đọc – hiểu văn bản và phần tiếng Việt tương ứng giúp ích rất nhiều cho việc viết bài văn tự sự.

Ví dụ: Trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long được kể lại dưới điểm nhìn của ông họa sĩ già cũng đồng thời là nhân vật trong truyện.

icon-date
Xuất bản : 04/02/2021 - Cập nhật : 05/02/2021

Xem thêm các bài cùng chuyên mục

Tham khảo các bài học khác