logo

Giải SBT Ngữ văn 10 Bài 4: Sức sống của sử thi (KNTT)

Hướng dẫn Giải SBT Ngữ văn 10 Bài 4: Sức sống của sử thi ngắn gọn hay nhất, nằm trong bộ sách bài tập Ngữ văn 10 Kết nối tri thức giúp các bạn ôn tập và nắm vững kiến thức bài học tốt hơn.

SBT Ngữ văn 10 Bài 4: Sức sống của sử thi


Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt

Bài tập 1. Đọc lại văn bản Héc-to (Hector) từ biệt Ăng-đrô-mác (Andromache) trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 99 – 103) và trả lời các câu hỏi:

1. Khi nghe tin Ăng-đrô-mác đã rời khỏi nhà, Héc-to phản ứng như thế nào? Hành động đó cho thấy suy nghĩ, cảm xúc gì của nhân vật?

2. Phân tích diễn biến nội tâm của Ăng-đrô-mác thể hiện qua lời khuyên can của nàng dành cho Héc-to.

3. Qua lời đối thoại của Héc-to và Ăng-đrô-mác, bạn có nhận xét gì về số phận của con người trong chiến tranh?

4. Lời đáp của Héc-to với Ăng-đrô-mác cho thấy tâm trạng, tình cảm gì của chàng? Những tình cảm đó có mâu thuẫn với quyết định mở cổng thành của Héc-to không? Vì sao?

5. Trong văn bản có đoạn: “Héc-to lừng danh cúi xuống muốn ôm con trai vào lòng. Nhưng cậu bé khóc ré lên, nhao người về phía nhũ mẫu xống áo thướt tha. Ánh đồng sáng loá và cái ngủ bờm ngựa cong cong trên mũ trụ của cha làm nó e sợ. Người cha hồn hậu và người mẹ dịu hiền bật cười. Héc-to tháo ngay mũ trụ sáng loáng của mình đặt xuống đất. Theo bạn, các chi tiết được kể trong đoạn này có ý nghĩa gì?

6. Văn bản cho thấy người Hy Lạp quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa con người và thần linh?

"2. và đã sinh ra trên mặt đất này, chẳng một ai dù quả cảm hay rụt rè, có thể trốn chạy được số phận.[...] Chiến tranh là bổn phận của mỗi người đàn ông sinh ra tại thành I-li-ông (llion) này, nhất là ta.. Bạn hiểu như thế nào về quan niệm này? Theo bạn, quan niệm đó có còn phù hợp với thời đại ngày nay không? Vì sao?

8. Tình huống chính được miêu tả trong đoạn trích là gì? Bạn có đồng ý với cách hành xử của các nhân vật trong tình huống này không? Vì sao?

Bài tập 2. Đọc lại văn bản Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 105 – 110) và trả lời các câu hỏi:

1. Đăm Săn đã phản ứng như thế nào khi nghe lời khuyên của Đăm Par Kvây? Những phản ứng đó thể hiện phẩm chất gì của nhân vật?

2. Vì sao biết mình sẽ gặp nguy hiểm trên đường đến nhà Nữ Thần Mặt Trời, Đăm Săn vẫn quyết định lên đường?

3. Vì sao đã được báo trước là sẽ chết trong Rừng Đen khi mặt trời lên, Đăm Săn vẫn quyết định quay về nhà? Hành động quyết tâm quay trở lại với làng hoang nhà cũ của Đăm Săn cho thấy quan niệm gì của người Ê-đề?

4. Cảnh tượng ngôi nhà của Nữ Thần Mặt Trời được miêu tả như thế nào? Bạn có nhận xét gì về cách thức miêu tả đó?

5. Đọc kĩ phần cước chú cho các chi tiết trong văn bản. Những thông tin này giúp bạn hiểu thêm điều gì về sử thi Đăm Săn?

6. Phân tích không gian nghệ thuật trong đoạn trích. Cách tổ chức không gian đó cho bạn biết điều gì về quan niệm vũ trụ của người Ê-đê?

7. Tìm các chi tiết thể hiện thái độ của người kể chuyện với nhân vật và câu chuyện được kể. So sánh thái độ của người kể chuyện trong đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời và thái độ của người kể chuyện trong đoạn trích Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác.

Bài tập 3. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Sử thi – niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên

Người Tây Nguyên vốn đã say mê, đắm đuối với sử thi của mình. Sa-bát-ti-ê (Sabatier) trong bài giới thiệu sử thi Đàm Xăn đã thuật lại ý kiến của các già làng người Ê-đề như sau: “Tôi hỏi các già làng: Vậy khan là cái gì? Một người trả lời: "Khan ư? Không có cái gì đẹp hơn thế. Trong khi nhà có một người kể khan, lúc mặt trời lặn chúng ta thấy người trong nhà chăm chủ bất động như thế nào thì chúng ta thấy họ bất động y nguyên như thế cho đến lúc mặt trời mọc (việc kể khan diễn ra qua đêm đến sáng – Phan Đăng Nhật), Khi trong nhà có người kể khan, đàn bà thôi kêu la, trẻ con ngừng khóc, không hề ai ngủ, không ai nói chuyện, tất cả mọi người đều lắng nghe”. Sa-bát-ti-ê kể tiếp, sau một thời gian dài tìm tòi, ông phát hiện ra một ông già mù biết khan, khan Đăm Xăn.

“Tôi không thể nói được sự xúc động của tôi khi nghe lần đầu bài ca đơn điệu và khá buồn đã gợi cho tôi một quá khứ, mà nó làm cho tôi nghi ngờ. Ôi một sự phát hiện! Đó là một bằng chứng không chối cãi được rằng những bộ lạc Đắk Lắk đã có một cuộc sống khác với người "Mọi" khốn khổ hôm nay.

Tôi gặp lại ở hiên toà sử, ông già mù khoác một tấm chăn sờn rách thảm hại run lập cập dưới sự cắn rứt của gió bấc tháng Hai; và tôi thấy ông già ngồi trên sàn, một chân ca, cùi tay đặt trên đầu gối, bàn tay đỡ trán, đôi mắt đã tắt những tia sáng của hiện tại, nhưng mở rộng về quá khứ, mà trí nhớ của ông đã được làm sống lại và đôi môi mấp máy. Tôi cũng gặp Ma Bli, Ma Bôk và ông già Ma Ngay. Họ đều sững sờ trong thái độ ngạc nhiên. Ông tù trưởng già (Ma Ngay) ngập chìm trong mơ, đôi mắt ông còn nhoà đi vì cuộc viễn du trong quá khứ mà người ca sĩ đã khéo gợi lên, bộ mặtcủa ông hằn sâu những vết nhăn nheo chứng tỏ sự cô đơn tuyệt vọng của ông trong hiện tại khốn khổ. Sự thức tỉnh của ông già Kaa đã làm sống lại nhiều thế kỉ trong một giấc mơ quả ngắn ngủi…".

Trên đây là sự miêu tả sức cuốn hút, sự say mê lòng người của sử thi qua việc tìm hiểu của một người nước ngoài. Còn tiếp theo là ý kiến của người Ê-đê, ông Y Wang, một trí thức Ê-đề:

“Người Ê-đê trước đây không có chữ viết, không có sách truyện, sách thơ, kịch, nên kể khan là lối văn nghệ người ta thích lắm. Mỗi lần có người kể khan thì trẻ già trai gái không sót một ai không đến nghe. Kể suốt đêm cho đến sáng người ta cũng nghe. Nghe hết rồi nhiều khi còn nhờ kể lại.

Khan Đăm Săn được người ta rất ưa thích. Người ta phục Đăm Săn có tài đánh tù trưởng nào cũng thắng. Người ta thích đi theo Đăm Săn lên nói chuyện với Mặt Trời, đi chơi cùng rừng núi, đi bắt Nữ Thần Mặt Trời làm vợ lẽ. Người ta ước mơ sống một cuộc đời thật giàu sang như trong truyện, khách khứa đầy nhà, ăn uống linh đình, đánh nhạc inh rừng núi suốt ngày đêm.

Cả truyện Đăm Săn toả ra một cuộc sống gần với đời thật, nhưng phong phú hơn, phóng khoáng hơn, cao xa hơn. Đó là điểm chính làm cho người ta thích nghe truyện Đăm Săn, nghe mãi không thôi, nghe kể liền ba bốn lần cũng không chán). Sở dĩ có sự say mê kì lạ đó, còn một lẽ nữa là, người kể và người nghe khan đều tin

rằng, trong khi kể khan các nhân vật đã hiện về sống với họ và họ được chung sống với những nhân vật anh hùng trong những phút giây thiêng liêng. Khi nghiên cứu sử thi Hơmon của người Ba-na, Tô Ngọc Thanh đã thu nhận được những hiện tượng tiêu biểu thuộc phạm vi quan niệm về sự huyền ảo có thực. Ông viết: “Người kể nằm trên sàn nhà, có thể là nhà rồng. Bên cạnh ông ta chỉ có những thành viên già của hội đồng công xã ngồi lặng im. Người ta không đốt lửa. Nhà rộng chìm trong bóng tối dày đặc. Nhưng không thể khác được, bởi vì nhân dân ta tin rằng, những nhân vật của Hơmon có cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới của chúng. Chúng sẽ cảm thấy khi nào người kể bắt đầu kể, lập tức những nhân vật của Hơmon bay đến, đậu vào linh hồn người kể. Đó là điều kiện không thể thiếu để người kể có thể thể hiện những nhân vật với tất cả tính cách của chúng như chúng vẫn hằng có. Nếu nhà rộng được chiếu sáng, các nhân vật sẽ bị hoảng sợ không thể bay về được và không hạ cánh xuống tâm hồn của người kể. Và vì thế, cuộc kể của Hơmon sẽ trở nên khô cứng, nhợt nhạt như “một cây gỗ chết đứng trơ trọi giữa những gốc cây chưa chảy hết của một cái rẫy"

Thành viên của công xã và những thành viên của công xã bên cạnh ngồi thành những nhóm nhỏ ở sân nhà rộng dưới trời đêm đông đen đặc. Những nhóm người nghe có thể đốt một đống lửa nhỏ để sưởi và lấy lửa hút thuốc. Họ ngồi lặng lẽ như gỗ,tựa như đã cầm. Giọng kể của người kể được nghe rõ bởi vì vách nhà rỗng đan bằng những nan tre. Theo sự quan sát của tôi, người nghe bị thu hút hoàn toàn bởi diễn biến của câu chuyện. Sau khi Hơmon kết thúc, tôi hỏi người bên cạnh:

- Bác nghĩ gì trong thời gian nghe kể?

- Tôi chẳng nghĩ gì cả, tại sao ông lại hỏi thế? Chẳng nhẽ không phải là tôi đã cùng với các nhân vật trong suốt thời gian kể hay sao?

Rất có thể sự việc là như vậy. Với niềm tin vào tính chất có thật của câu chuyện được kể với một thái độ “tự kỉ ám thị” hết mình thường được quan sát thấy ở những con người kiểu này thì việc con người toàn tâm toàn ý bị thu hút vào diễn biến của sự kiện là đúng đắn. Theo tôi, phương thức cảm xúc có bóng đêm đen, ánh lửa yếu ớt lại chính là những điều kiện cho cánh tay của trí tưởng tượng của người nghe”.

Các nhân vật sử thi còn tiếp tục trở lại với người nghe trong giấc mơ. “Theo các cụ già cho biết, khi về ngủ sau khi nghe sử thi, rất nhiều người nằm mơ thấy các nhân vật trong truyện hiện về. Họ cho đó là điểm lành và việc họ được tiếp xúc với các nhân vật là điều có thật. Thực cũng không có gì là lạ, nếu chúng ta nhớ rằng, đối với đồng bào, cộng đồng Polei (làng ở vùng Ba-na) bao gồm cả phần hiện thực, siêu thực. Trong phần siêu thực ấy có cả các nhân vật huyền thoại của sử thi. Quan niệm này dẫn đến một quy định đối với việc hát – kể sử thi như sau: Đã bắt đầu hát – kể một sử thi nào đó thì phải hát – kể cho đến hết. Dù phải ngắt ra làm nhiều đêm nhưng không được phép bỏ dở. Làm như vậy các nhân vật trong truyện sẽ quở trách, vì không nói hết được số phận của họ. Vả chăng như trên đã nói, người nghe không chỉ đến để nghe theo ý nghĩa là thưởng thức, mà là để “sống” với câu chuyện 2.

Không phải chỉ có ngày xưa, mà gần đây, tình yêu quý say mê sử thi vẫn còn sâu nặng trong các tộc người. Ka Sô Liễng ghi lại thực tế gần đây như sau: “Đêm hôm đó, nhà bên có đám cũng rất to, có đánh cồng đánh chiêng nhảy múa, nhưng khi ông Kpa Y Méo cất tiếng hát sử thi Chi Lơ Kôk thì hình như có nam châm đã thu hút mọi người vây quanh, lớp trong, lớp ngoài xung quanh ông. Nhân dân xã Krông Pa yêu quý Kpa Y Méo như thế nào thì nhân dân xã Phú Mỡ, Xuân Lãnh, Suối Cối yêu quý ông Ma Phải cũng như vậy”... Tôi đã từng chứng kiến những đêm bà con dân tộc Chăm ở làng Hội, xã Phú Mỡ ngồi nghe ông Ma Phửi hát sử thi Xing Chi Ôn suốt đêm. Họ ngồi, nằm chật nhà ông Ma Phải chăm chú nghe ông hát – kể trường ca Xing Chi Ôn. Họ chăm chú lắng nghe và nuốt từng câu, từng chữ. Họ cứ ngồi nghe như vậy cả đêm, sáng mai vẫn đi làm rẫy, làm nương bình thường, họ mang theo những nhân vật trường ca trong đầu và mong cho tối để tiếp tục được nghe hát sử thi 3).

(Phan Đăng Nhật, Sử thi Tây Nguyên trong xã hội đương đại, tạp chí Di sản văn hoá phi vật thể, số 4/2008)

1. Văn bản có bao nhiêu cước chủ? Các cước chủ đó thuộc loại nào và có tác dụng gì?

2. Trước khi trích dẫn trực tiếp, tác giả thường dẫn dắt như thế nào? Phần dẫn dắt đó có tác dụng gì?

3. Các thông tin trong phần cước chủ được trình bày như thế nào?

4. Bạn đánh giá như thế nào về các trích dẫn được sử dụng trong văn bản? Theo bạn, các thông tin được trích dẫn này có thực sự khách quan và đáng tin cậy không? Vì sao?

5. Qua văn bản, bạn biết thêm điều gì về hình thức diễn xướng của sử thi Tây Nguyên, về người kể chuyện và người nghe sử thi?

6. Theo tác giả, sử thi Tây Nguyên có vai trò gì trong đời sống văn hoá của người Tây Nguyên?

Bài tập 4. Đọc lại văn bản Ra-ma buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 121 – 123), đoạn từ“Gia-na-ki (Janaki) khiêm nhường” đến “đâu có chịu đựng được lâu” và trả lời các câu hỏi:

1. Ra-ma đã buộc tội Gia-na-ki bằng những lí lẽ nào? Lời buộc tội của Ra-ma liệu có mâu thuẫn với hành động xả thân để giải cứu Gia-na-ki trước đó của chàng hay không? Vì sao?

2. Tìm những chi tiết miêu tả tâm trạng của Ra-ma. Những chi tiết đó liệu có mâu thuẫn với lời buộc tội của chàng hay không? Vì sao? có vai trò nhưng nước miêu việc bộc lộ phẩn chơi văn các nhân vật? 3. Tình huống được miêu tả trong phần đầu của văn bản là gì? Tình huống đó

Bài tập 5. Đọc lại văn bản Ra-ma (Rama) buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 123 – 124), đoạn từ “Nghe những lời giận dữ đó của Ra-ma” đến “xem ra hoàn toàn vô ích!” và trả lời các câu hỏi:

1. Tìm các chi tiết miêu tả tâm trạng của Gia-na-ki trước lời buộc tội của Ra-ma. Bạn nhận xét như thế nào về cách miêu tả tâm lí nhân vật trong đoạn trích? 2. Gia-na-ki đã sử dụng những lí lẽ gì để thuyết phục Ra-ma? Qua những lí lẽ đó, bạn nhận ra phẩm chất gì của nhân vật?

Bài tập 6. Đọc lại văn bản Ra-ma buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 124), đoạn từ “Nói dứt lời, Gia-na-ki oà khóc" đến "vang trời trước cảnh tượng đó” và trả lời các câu hỏi:

1. Hành động dũng cảm bước vào giàn hoả thiêu của Gia-na-ki có ý nghĩa gì? 2. Tìm các chi tiết miêu tả Ra-ma trong đoạn cuối của văn bản. Các chi tiết đó cho thấy tâm trạng gì của nhân vật? Vì sao Ra-ma lại có tâm trạng đó?3. Thần Lửa A-nhi (Agni) có vai trò gì trong văn hoá, tín ngưỡng của người Ấn Độ? 4. Trong văn bản có đoạn: “Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hoả. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh [..], các phụ nữ bật ra tiếng kêu khóc thảm thương. Cả loài Rắc-sa-xa (Rakshasa) lẫn loài Va-na-ra (Vanara) cùng kêu khóc vang trời trước cảnh tượng đó. Theo bạn, những chi tiết được kể trong đoạn này thể hiện đặc trưng gì của thể loại sử thi?

5. Người kể chuyện trong văn bản là ai? Kể bằng giọng điệu như thế nào? So sánh người kể chuyện trong văn bản Ra-ma buộc tội với người kể chuyện trong văn bản Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác và Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời.

6. Bạn nhận xét gì về lời kể, lời miêu tả, lời đối thoại trong văn bản?

7. Tìm hiểu về ảnh hưởng của sử thi Ra-ma-ya-na trong văn hoá Ấn Độ và các quốc gia khác trên thế giới. Theo bạn, vì sao sử thi Ra-ma-ya-na lại có ảnh hưởng như vậy?

8. Mối quan hệ giữa tình yêu và danh dự được lí giải như thế nào trong văn bản Ra-ma buộc tội? Qua cách lí giải đó, bạn nhận ra quan niệm gì của người Ấn Độ cổ xưa? Bạn có đồng ý với quan niệm đó không? Vì sao?

Lời giải: 

Bài tập 1.

1. Héc-to phản ứng: tức thì rời nhà, chạy ngược theo những dãy phố thành Tơ-roa (Troy) xây dựng khang trang. Xuyên qua phố xá thành Tơ-roa rộng lớn, chàng tới cổng Xkê (Skey). 

Hành động đó cho thấy nỗi lo lắng cùng niềm mong ngóng được gặp lại vợ của mình. Có thể cảm nhận được tình yêu mà Héc-to dành cho Ăng-dro-mác.

2. Phân tích: Ăng-dro-mác lo lắng cho chàng Héc-to. Nàng có một dự cảm không lành ở tương lai nên không muốn Héc-to gặp nguy hiểm.

3. Nhận xét: Chiến tranh đã chia rẽ bao gia đình. Chiến tranh để lại đau khổ cho người ra đi lẫn người ở lại. Vào thời kì chiến tranh, chúng ta đều phải gạt bỏ đi hạnh phúc cá nhân để ra chiến trường, lấy sinh mệnh mình để bảo toàn những điều cao cả, đó chính là bảo vệ quê hương, gia đình, những người thân yêu.

4. Tâm trạng, tình cảm: Héc-to đấu tranh trong đau khổ giữa một bên là sự lo lắng của người vợ dành cho mình, bên còn lại là sự sống còn của thần dân Tơ-roa. 

Quyết định này mâu thuẫn với tình cảm của chàng Héc-to. Dù yêu vợ, yêu con, nhưng chàng không thể ích kỉ vì hạnh phúc của mình mà đẩy bao người dân vào cảnh đau khổ. Hơn nữa, Héc-to còn là một vị vua. Chàng có nhiệm vụ cao cả hơn bao giờ hết đó chính là bảo vệ đất nước, bảo vệ con dân.

5. Ý nghĩa: Dù ở ngoài kia Héc-to có là anh hùng, là vua của đất nước nhưng khi trở về tổ ấm, chàng cũng là người bình thường như bao người khác, là người cha của cậu bé – đứa con của Héc-to và Ăng-dro-mac

6. Quan niệm về mối quan hệ giữa con người và thần linh: Khi rơi vào trạng thái đau khổ đến tuyệt vọng, con người đến đền thờ để cầu xin sự soi chiếu. Và mọi thứ sẽ được định đoạt bởi thần linh chứ không do con người.

7. Em hiểu quan niệm trên có nghĩa là bổn phận của mỗi người đàn ông là không thể trốn chạy khi có chiến tranh.

Theo em, quan niệm này đâu đó vẫn còn phù hợp trong một số trường hợp. Chiến tranh là hệ quả mà không ai mong muốn khi không thể điều hòa, thương lượng được. Tuy nhiên, khi có chiến tranh xảy ra, người đàn ông tuy là một bộ phận cần nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của người phụ nữ. Họ cũng có thể tham gia vào chiến tranh. Hơn nữa, định mệnh vốn là thứ được sắp đặt sẵn nhưng song con người cũng có thể thay đổi, xoay chuyển.

8. Tình huống: Cuộc gặp gỡ giữa chàng Héc-to và nàng Ăng-dro-mac trước khi Héc-to quyết định mở cổng thành chinh chiến với đội quân Hi Lạp.

Với em, em đồng tình với cách hành xử lúc bấy giờ. Bởi lẽ, đã là chiến tranh, bên nào cũng có thiệt hại nhất định. Hơn nữa, chẳng có một quốc gia nào lại muốn đất nước của mình lệ thuộc vào quốc gia khác. Do đó, để bảo vệ nhân dân, bảo vệ quê hương, mọi người đều phải đứng dậy đấu tranh. Và những lúc như thế này, chúng ta buộc lòng phải bỏ sự riêng tư của cá nhân sang một bên để thực hiện những điều lớn lao vì cộng đồng.

Bài tập 2.

1. Đăm Săn phản ứng: Chàng vẫn quyết tâm đi bắt nữ thần Mặt Trời.

Phản ứng đó thể hiện phẩm chất: dũng cảm, giàu lòng quyết tâm, muốn chinh phục khó khăn.

2. Vì chàng muốn khẳng định sức mạnh của một tù trưởng – người đứng đầu của cả một cộng đồng. Đồng thời, mục đích của chàng nhằm thể hiện sự ước mơ, mong muốn đi tìm lấy những cái siêu nhiên, những cái khó nắm bắt.

3. Đã được báo trước là sẽ chết trong Rừng Đen khi mặt trời lên, Đăm Săn vẫn quyết định quay về nhà là bởi: Đăm Săn ý thức về danh dự của mình. 

Hành động trở về làng hoang nhà cũ của Đăm Săn cho thấy quan niệm của người Ê-đê: quan niệm về người anh hùng, về danh dự, về bản làng.

4. Miêu tả: Toà nhà dài dằng dặc, voi vây chặt sàn sân, chiêng xếp đầy nhà ngoài, cổng chất đầy nhà trong, tôi trai tớ gái như ong đi lấy nước, như vò vẽ đi chuyển hoa…

Nhận xét: Cách miêu tả chi tiết, tỉ mỉ cho thấy sự tráng lệ của ngôi nhà nữ thần Mặt Trời. Đó là ngôi nhà giàu có vô cùng.

5. Giúp em hiểu hơn về văn hóa, phong tục tập quán của người Ê-đê. Vì mỗi vùng miền có những nét văn hóa khác nhau. Đọc phần cước chú giúp bản thân dễ hình dung ra được những điều mà người viết nói đến.

6. Phân tích: Không gian nghệ thuật trong đoạn trích là không gian vô cùng rộng lớn, khoáng đãng và tự nhiên. Nhà là nơi sinh hoạt, là nơi diễn ra các lễ nghi, tập quán của con người, còn rừng là không gian của tự nhiên với sự hoang dã, chân chất, nhưng ẩn chứa nhiều nguy hiểm. Đến với bầu trời là một không gian có khoảng cách lớn so với mặt đất – nơi con người sinh sống, tuy vậy, chúng ta vẫn có thể lên tới được. Cuối cùng là con đường – đây là không gian nối ngôi nhà, rừng, trời và con người lại với nhau.

Quan niệm: Con người luôn muốn chinh phục những điều lớn lao, kì bí. Họ muốn vượt ra vùng an toàn để tìm kiếm những điều mới mẻ, hay ho đang chờ đợi ở phía trước. Từ đó chứng tỏ được bản lĩnh, sức mạnh, ý chí của con người.

7. Ở đây, thái độ của người kể chuyện với nhân vật và câu chuyện được kể được thể hiện gián tiếp.

Đối với đoạn trích Héc-to từ biệt Ăng-dro-mac, thái độ người kể chuyện hiện lên trang nghiêm, thể hiện sự thành kính.

Bài tập 3.

1. Văn bản có 6 cước chủ.

Các cước chủ đó thuộc loại chú thích.

Tác dụng: giải thích các trích dẫn được sử dụng trong văn bản.

2. Trước khi trích dẫn trực tiếp, tác giả thường dẫn dắt: giới thiệu sơ lược về tác giả, nội dung chính và nguồn trích dẫn.

Tác dụng: giúp người đọc nắm bắt được những thông tin mà người viết sẽ trình bày trong các phần trích dẫn sau. Đồng thời giúp người đọc hình dung được một cách sơ lược trước khi bắt tay tìm hiểu kĩ nội dung.

3. Các thông tin trong phần cước chủ được trình bày: tên tác giả (năm xuất bản), tên tài liệu, xuất xứ tài liệu.

4. Đánh giá: Các trích dẫn được sử dụng trong văn bản từ nhiều nguồn khác, do đó giúp người đọc có cái nhìn đa chiều, chứng tỏ nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu, thẩm định nó. Đồng thời thể hiện được sự tôn trọng về nét đẹp văn hóa người Ê-đê.

Theo em, các thông tin trích dẫn có thể tin cậy được. Bởi lẽ, các thông tin được nhiều nhà nghiên cứu nghiên cứu, tức là họ đã có quá trình nghiên cứu rõ ràng, cụ thể từ nhiều nguồn khác nhau để rút ra kết luận.

5. Em hiểu được rằng diễn xướng của sử thi Tây Nguyên thường được biểu diễn trong căn nhà rỗng có nhiều thành viên ngồi thành vòng tròn quanh đống lửa. Dưới màn đem u tối, ánh lửa bập bùng, mọi người nghe người kể kể về những câu chuyện trong quá khứ.

6. Theo tác giả, sử thi Tây Nguyên có vai trò: Sử thi là niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên: là một phần đời sống của người Tây Nguyên, là phần huyền thoại, là giấc mơ, phần siêu thực trong đời sống của họ, và vì thế, sử thi không phải chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà chính là một cuộc sống thứ hai của người Tây Nguyên.

Bài tập 4.

1. Lí lẽ: Vì Gia-na-ki bị Ra-va-na bắt cóc, sống trong nhà kẻ khác và bị quẫy nhiễu nên Ra-ma nảy sinh nghi ngờ Gia-na-ki không chung thủy.

Lời buộc tội của Ra-ma có mâu thuẫn với hành động xả thân để giải cứu Gia-na-ki trước đó của chàng, bởi lẽ, Ra-ma cứu Gia-na-ki xuất phát từ tình yêu của nam nhân dành cho nữ nhân, hơn nữa, người bị bắt cóc lại chính là vợ của mình. Tuy ghen tuông nhưng Ra-ma vẫn sẵn sàng xả thân cứu Gia-na-ki bình an trở về.

2. Chi tiết: Thấy người đẹp khuôn mặt bông sen với những cuộn tóc lượn sóng đứng trước mặt minh, lòng Ra-ma đau như dao cắt.

Chi tiế này có mâu thuẫn với lời buộc tội của chàng. Vì Ra-ma thực sự thương xót người phụ nữ của mình. Điều đó chứng tỏ rằng, anh thực sự rất yêu Gia-na-ki, tuy nhiên, khi đứng trước sự lựa chọn giữa tình cảm cá nhân với ý thức cộng đồng lúc bấy giờ mà lời nói lẫn suy nghĩ của anh mâu thuẫn nhau.

3. Tình huống: Cuộc gặp gỡ giữa chàng Ra-ma và nàng Gia-na-ki sau nhiều năm xa cách, sau khi Ra-Ma cứu được vợ mình thoát khỏi quỷ vương Ra-va-na.

Tình huống này là tính huống kịch tính, giàu cảm xúc. Đứng trước lựa chọn giữa hạnh phúc cá nhân và danh dự, Ra-ma buộc lòng phải bảo vệ danh dự của đấng tối cao mà đưa ra những lời buộc tôi đau đến tâm can dành cho nàng Gia-na-ki.

Bài tập 5. 

1. Chi tiết:

- Gia-na-ki mở tròn đôi mắt đẫm lệ.

- Nghe những lời giận dữ đó của Ra-ma, Gia-na-ki đau đớn đến nghẹt thở, như một cây dây leo bị vòi voi quật nát.

- Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ ra như suối.

Nhận xét: Qua những chi tiết, trên, có thể thấy, Gia-na-ki vô cùng buồn tủi, đau khổ trước những lời buộc tội của Ra-ma mà đó còn chính là những lời được thốt ra bởi người chồng đầu ấp tay gối với mình.

2. Lí lẽ:

- Nàng dùng chính danh dự của mình để thuyết phục Ra-ma.

- Gia-na-ki một mực khẳng định sự thủy chung, trong sạch của mình trong thời gian bị quỷ giam giữ.

- Gia-na-ki nhắc đến xuất thân của mình để chứng mình sự trong sạch.

- Nàng chỉ ra những lời buộc tội vô căn cứ của Ra-ma.

Em nhận ra, Gia-na-ki là cô gái thông minh, có chính kiến, bản lĩnh. Đứng trước đáng tối cao, là vua, là chồng nhưng cô không run sợ, ngược lại còn mạnh mẽ phản kháng. Điều đó chứng tỏ cô là người coi trọng đến danh dự của mình.

Bài tập 6.

1. Ý nghĩa: Hành động dũng cảm bước lên gian hỏa thiêu của Gia-na-ki một mặt chứng tỏ sự bất lực, nỗi buồn xót xa khi không nhận được sự tin tưởng của Ra-ma sau nhiều lần lên tiếng, mặt khác thể hiện sự coi trọng danh dự của mình. Gia-na-ki sẵn sàng làm tất cả để chứng minh bản thân trong sạch, không làm điều khuât tất, trái với đạo đức xã hội.

2. Chi tiết:

- Lúc đó nom chàng khủng khiếp như thần Chết vậy.

- Ra-ma vẫn ngồi, mắt dán xuống đất.

Tâm trạng của Ra-ma lúc này là mớ hỗn độn. Sau cuối cùng, chàng không thể bảo vệ được hạnh phúc cá nhân của mình. Nhìn người phụ nữ mình yêu lên giàn hỏa thiêu để chứng minh sự trong sạch mà lòng chàng cồn cào như lửa đốt, trân người không biết làm gì. Đó là biểu hiện cho sự bất lực đến vô vọng.

3. Vai trò: Thần Lửa là vị thần có mặt ở khắp nơi, biết được tất cả sự việc và có thể chứng giám cho đạo đức con người. Chính bởi vậy mà khi bước lên giàn hỏa thiêu, Gia-na-ki đã cầu xin Thần Lửa để được thần chứng giám.

4. Đặc trưng: Truyện sử thi thường xuất hiện nhân vật người chứng kiến với mục đích bày tỏ quan điểm, đánh giá của cộng đồng đối với các nhân vật, sự kiện đó.

5. Người kể chuyện là người đại diện cho cộng đồng.

Người kể chuyện kể bằng giọng điệu ngưỡng mộ, ca ngợi.

So sánh: 

- Người kể chuyện trong văn bản Héc-to từ biệt Ăng-dro-mác được kể dưới góc nhìn bên ngoài. 

- Người kể chuyện Đăm Săn đi bắt Nữ thần Mặt Trời lại kể thông qua diễn biến tâm lí nhân vật.

6. Nhận xét:

- Lời kể ngắn gọn nhưng khái quát được toàn bộ câu chuyện.

- Lời miêu tả đã nêu bật được diễn biến tâm tư tình cảm bên trong cùng những giằng xé nội tâm của nhân vật.

- Lời đối thoại thể hiện được lí lẽ sắc bén của nhân vật.

7. Sử thi Ra-ma-ya-na trong văn hóa Ấn Độ bị ảnh hưởng rất nhiều. Chúng ta có thể thấy điều này bằng việc ở khắp các đền thờ Ấn Độ đều có hình ảnh thần Ha-nu-man.

Đối với các quốc gia khác, ở các đền thơ của Camphuchia, Thái Lan… thì có nhiều bức phù điêu liên quan đến những nhân vật hay sự kiện trong sử thi Ra-ma-ya-na.

Theo em, sử thi Ra-ma-ya-na có ảnh hưởng đến như vậy là vì Ấn Độ thời cổ đại là một trong những cái nôi văn hóa lớn của nhân loại nên có sức lan tỏa mạnh mẽ, rộng rãi tới nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, dưới sức hút hấp dẫn của sử thi nên càng khiến sử thi Ra-ma-na-ya càng được rộng rãi quốc gia biết đến, lấy nó làm nguồn tư liệu để sáng tác văn hóa.

8. Mối quan hệ: sự lựa chọn giữa tình yêu cá nhân và danh dự của một đáng tối cao, sâu xa hơn đó là danh dự của cả một dân tộc.

Người Ấn Độ cổ xưa có quan niệm sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân để giữ lấy danh dự nhằm thực hiện bổn phận với cộng đồng.

Em không bác bỏ hoàn toàn quan niệm đó. Chúng ta có thể lựa chọn điều khác để giữ lấy hạnh phúc của mình nếu cho rằng hạnh phúc đó là đúng đắn, không vi phạm pháp luật và trái đạo đức. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, khi đứng trước những điều lớn lao vì dân tộc, chúng ta có thể hi sinh hạnh phúc cá nhân.


Viết

Bài tập 1. Đặt câu hỏi nghiên cứu cho một trong số các đề tài sau:

a. Hình thức kể khan của người Ê-đề.

b. Các địa danh trong sử thi “-li-át” (Iliad) của Hộ-me-rơ (Homèros) trên bản đồ thể giới đương đại. allad cia

c. Rừng và làng trong sử thi “Đăm Săn”.

d. Chiến tranh trong sử thi “-li-át" của Hô-me-rơ.

Bài tập 2. Chọn một đề tài trong số những đề tài gợi ý nêu trên hoặc một đề tài nghiên cứu về sử thi mà bạn có hứng thú. Thu thập thông tin về đề tài. Lập bảng tổng hợp, phân tích và đánh giá các thông tin mà bạn thu thập được theo gợi ý sau:

STT

Tên tác giả

Tên tài liệu

Nguồn tài liệu

Thông tin chính

Đánh giá

           

 Bài tập 3. Lập kế hoạch nghiên cứu cho đề tài nghiên cứu của bạn. Có thể tham khoả bảng gợi ý sau:

STT

Nội dung công việc

Thời hạn

Người thực hiện

Dự kiến sản phẩm

Đánh giá kết quả

1          
2          
3          

Bài tập 4. Lập đề cương cho đề tài nghiên cứu mà bạn chọn ở bài tập 2. 

Lời giải: 

Bài tập 1. 

Đặt câu hỏi nghiên cứu về đề tài “Hình thức kể khan của người Ê-đê”:

+ Giải thích nghĩa từ “khan”?

+ Người nghe là ai? Hướng đến đối tượng nghe nào? Mối quan hệ giữa người kể và người nghe?

+ Người kể khan có vai trò gì trong đời sống người Ê-đê?

+ Khi nào người kể khan sẽ kể?

+ So sánh kể khan của người Ê-đe với các hình thức diễn xướng sử thi của các dân tộc khác?

+ Đối với thời đại ngày nay, có cần giữ kể khan là người kể chuyện hay không?

+ Suy nghĩ của bản thân về người kể khan.

Bài tập 2. 

STT

Tên tác giả

Tên tài liệu

Nguồn tài liệu

Thông tin chính

Đánh giá

   Thương Huyền - Anh Tuấn  Để văn hóa kể Khan còn mãi với Tây Nguyên

          Báo điện tử Đảng cộng sản:

https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/de-van-hoa-ke-khan-con-mai-voi-tay-nguyen-519664.html

 - Gặp nghệ nhân kể Khan Rơ Mah Kim kể về đặc điểm Kể Khan Tây Nguyên.

- Chính sách bảo tồn kể than.

 Chân thực, ấn tượng.
  Vạn Tiếp

Hát kể sử thi Êđê - Gian nan tìm người kế tục

 

https://baodaklak.vn/channel/9803/201502/hat-ke-su-thi-ede-gian-nan-tim-nguoi-ke-tuc-2371561/

- Nghệ nhân Y Đhin Niê trò chuyện.

- Suy nghĩ về hình thức kể khan ngày nay khi khó tìm người kế tục.

Hấp dẫn. 

Bài tập 3. 

STT Nội dung công việc Thời hạn Người thực hiện Dự kiến sản phẩm Đánh giá kết quả
1  Nghiên cứu về hình thức kể khan 07 ngày  Tất cả các thành viên trong nhóm  Bài viết đã được tổng hợp  Phụ thuộc vào hoạt động của từng cá nhân. 
2  Tìm các video, clip người kể khan kể sử thi 05 ngày  2 thành viên trong nhóm  Clip, video ngắn (có trích dẫn nguồn)  Phụ thuộc vào hình ảnh video có rõ nét, nguồn tin cậy hay không 
3  Đánh giá của các nhà nghiên cứu 05 ngày  3 thành viên trong nhóm  Tìm trên các phương tiện thông tin đại chúng những người nghiên cứu có sức ảnh hưởng  Phụ thuộc vào nguồn tin cậy có tốt hay không, đối tượng nhà nghiên cứu là ai 

Bài tập 4. 

Đề cương:

- Giới thiệu vấn đề: nêu lên vấn đề cần bàn luận.

- Triển khai vấn đề:

+ Giải thích khái niệm “khan”.

+ Người kể khan là ai? Đặc điểm như thế nào? So sánh với người kể khan hoặc các hình thức diễn xướng trong sử thi của các dân tộc khác?

+ Mối liên hệ giữa người kể và người nghe?

+ Vai trò của người kể khan hiện lên như thế nào?

+ Ở thời đại ngày nay, người kể khan liệu có “biến mất’ khi rất khó để tìm người kế tục?

+ Suy nghĩ của bản thân.

- Kết luận vấn đề: tổng kết lại vấn đề.


Nói và nghe

Bài tập 1. Ghi lại những thông tin chính của đề tài để chuẩn bị cho bài thuyết trình dựa vào bảng gợi ý sau:

TÊN ĐỀ TÀI

Người thực hiện:

Thời gian thực hiện:

 
Lí do chọn đề tài  
Những câu hỏi chính về đề tài  
Tài liệu tham khảo  
Kết quả nghiêm cứu dự kiến  

Bài tập 2. Thuyết trình về đề tài nghiên cứu bạn lựa chọn thực hiện. Thu thập những thông tin phản hồi từ thầy cô và các bạn trong lớp về đề tài này.

Lời giải: 

Bài tập 1.

TÊN ĐỀ TÀI

Người thực hiện:

Thời gian thực hiện:

 - Hình thức kể khan của người Ê-đê.

 - Nhóm 8.

 

 - 10 ngày.

Lí do chọn đề tài  Nhận thấy được sự mới lạ của người trẻ về hình thức kể khan đồng thời thấy được khó  khăn khi tìm người kế tục người kể khan.
Những câu hỏi chính về đề tài

 + Giải thích khái niệm “khan”.

+ Người kể khan là ai? Đặc điểm như thế nào? So sánh với người kể khan hoặc các hình thức diễn xướng trong sử thi của các dân tộc khác?

+ Mối liên hệ giữa người kể và người nghe?

+ Vai trò của người kể khan hiện lên như thế nào?

+ Ở thời đại ngày nay, người kể khan liệu có “biến mất’ khi rất khó để tìm người kế tục?

Tài liệu tham khảo  Các bài viết, video liên quan đến đề tài.
Kết quả nghiêm cứu dự kiến

 - Bản báo cáo từ 15 đến 20 trang.

- Trình bày trước lớp để cả lớp cùng tranh luận.

Bài tập 2: Thuyết trình về đề tài nghiên cứu bạn lựa chọn thực hiện. Thu thập những thông tin phản hồi từ thầy cô và các bạn trong lớp về đề tài này.

Khi thuyết trình, nên bám sát các bước hướng dẫn trong SGK, ngoài ra, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau:

- Để thuyết phục người nghe, cần cung cấp thông tin chi tiết và bằng chứng khách quan, đáng tin cậy để làm rõ các luận điểm.

- Ngoài các phương tiện ngôn ngữ, người thuyết trình có thể sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ như sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh, số liệu,... để trực quan hoá thông tin, giúp người nghe dễ nắm bắt nội dung bài thuyết trình.

icon-date
Xuất bản : 23/09/2022 - Cập nhật : 23/09/2022