- Xây công trình tương tự với kiến trúc quy mô và hiện đại hơn trên nền di tích cũ.
- Bảo tồn nguyên trạng di tích.
Nếu được giao nhiệm vụ tư vấn để bảo tồn di tích đó, ý kiến của em thế nào?"
Trả lời:
Nếu được giao nhiệm vụ tư vấn để bào tồn di tích đó, em sẽ ý kiến bảo tồn nguyên trạng di tích. Vì điều cốt lõi trong bảo tồn di tích là phải đảm bảo tính nguyên trạng, phải giữ được "yếu tố gốc cấu thành di tích", phải đảm bảo "tính toàn vẹn", giá trị nổi bật của di tích.
Nếu những di sản văn hóa trên trong quá trình bảo tồn mà không quan tâm đến việc ứng dụng và sử dụng những kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học nói chung và Sử học nói riêng sẽ làm mất những giá trị ban đầu và sẽ bị thay đổi không còn giữ được những giá trị vốn có của nó.
Di sản văn hóa là di sản của các hiện vật vật thể và các thuộc tính phi vật thể của một nhóm hay xã hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và dành cho các thế hệ mai sau. Di sản văn hóa bao gồm tài sản văn hóa (như các tòa nhà, cảnh quan, di tích, sách, tác phẩm nghệ thuật, và các hiện vật), văn hóa phi vật thể (như văn hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức) và di sản tự nhiên (bao gồm cảnh quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học).
Bảo vệ di sản văn hóa không phải là câu truyện của riêng một cá thể hay một tổ chức triển khai. Đây còn là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn bộ mọi người trong một hội đồng dân tộc bản địa. Vào thời kỳ hội nhập, nhịp sống đổi khác không ngừng thì việc bảo vệ những di sản được xem là điều vô cùng thiết yếu. Vấn đề này có ảnh hưởng tác động và tác động ảnh hưởng đến quy trình thiết kế xây dựng và tăng trưởng Đất nước :
– Lưu giữ được công sức của con người và nét đẹp văn hóa truyền thống cuội nguồn của những thế hệ trước .
– Tạo “tiền đề” để các thế hệ sau tái tạo và phát triển. Nhằm cập nhật nền văn hóa tiên tiến nhưng vẫn không bị mất đi bản sắc dân tộc.
– Góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn hóa dân tộc bản địa nói riêng và di sản văn hóa quốc tế nói chung . – Phát huy giá trị di sản nhằm mục đích tạo thời cơ tăng trưởng du lịch . – Xây dựng hình ảnh, dấu ấn riêng không liên quan gì đến nhau của mỗi một vương quốc khác nhau với bè bạn Thế giới .
Quần thể di tích Cố đô Huế
Quần thể di tích Cố đô Huế nằm dọc hai bên bờ sông Hương thuộc thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Thành phố Huế là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của tỉnh, là cố đô của Việt Nam thời phong kiến dưới triều nhà Nguyễn, từ 1802 đến 1945.
Cố đô Huế là kinh đô một thời của Việt Nam, nổi tiếng với một hệ thống những đền, chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc nguy nga tráng lệ gắn liền với cảnh quan thiên nhiên núi sông thơ mộng. Nằm ở bờ Bắc sông Hương, tổng thể kiến trúc của cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng với diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi ba vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long là một di sản độc đáo vì nó chứa đựng những dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ, đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên với sự hiện diện của hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng; nhiều hang động kỳ thú quần tụ thành một thế giới vừa sinh động vừa huyền bí.
Khu di tích Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn tọa lạc trong một thung lũng kín có địa thế núi non hùng vĩ, thâm nghiêm. Nơi đây, với hơn 70 công trình kiến trúc đền tháp của nền văn minh Chămpa được kết tinh trong những di chứng vật chất trường tồn, chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật
Được khởi công từ thế kỷ 4, Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của dân tộc Chăm. Đây được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của đạo Hindu (Ấn Độ giáo) ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Năm 1999, khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới
Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam
Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại tại một phiên họp được tổ chức tại Paris nước Pháp ngày 07-11-2003. Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Huế bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Nhạc lễ nghi sử dụng riêng cho việc cúng tế và triều chính, các ngày quốc lễ và Yến nhạc dùng cho sinh hoạt vui chơi giải trí trong cung của vua chúa và hoàng tộc. Trong đó có cả thể loại ca nhạc đi kèm với múa và kịch hát (múa cung đình, tuồng cung đình). Nhạc cung đình Huế xưa có nhiều thể loại: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc dùng trong các dịp cúng tế trời đất; tổ tông; Đại triều nhạc dùng trong dịp lễ lớn, nghênh tiếp sứ thần; Triều nhạc và Yến nhạc phục vụ nội cung.
Quan họ Bắc Ninh
Quan họ Bắc Ninh được tổ chức UNESCO công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 30-9-2009. Phạm vi được công nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, nhưng tập trung nhiều nhất là ở Bắc Ninh (có 44 làng quan họ). Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca mượt mà, trữ tình của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ, với lối hát giao duyên dân dã mộc mạc nhưng mang đậm nghĩa tình của trai gái thông qua những “Liền Anh” “Liền Chị” hát quan họ. Quan Họ Bắc Ninh cũng là môn nghệ thuật được hợp thành từ những yếu tố như: âm nhạc, lời ca, trang phục và lễ hội.