Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam dùng để hát khi đi làm đồng, làm ruộng. Đồng dao bao gồm nhiều loại: các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, bài hát ru em... Thường gặp nhất là các bài đồng dao gắn liền với các trò chơi trẻ em. Nói chung, đồng dao trong các trò chơi trẻ em ở các vùng miền đều khá giống nhau ở nội dung, chỉ khác một vài tiếng địa phương.
1. Đặc điểm Ngôn ngữ
Thể thơ phổ biến thường sử dụng trong hát Đồng dao là thể thơ bốn chữ, bốn chữ biến thể và thể thơ lục bát, thơ hai chữ, ba chữ, thể thơ hỗn hợp. Thành phần cấu tạo một bài Đồng dao bao gồm âm điệu và thanh điệu, lối bắt vần chân, vần lưng tạo cho lời ca bài Đồng dao gần với chất ca xướng. Cùng với sự xuất hiện phổ biến của vần bằng (thanh không - thanh huyền), vần trắc (gồm 4 thanh còn lại) ở giữa dòng và cuối dòng tạo sự luân phiên thanh bằng, trắc làm nên tính trầm bổng cho giai điệu có chứa cả phần nhạc và phần thơ.
Vd: bài Thả đỉa ba ba xây dựng ở thể thơ bốn chữ, sử dụng lối bắt vần chân luân phiên thanh bằng trắc tương đối nhịp nhàng:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông...
Ngoài ra, trong một số bài Đồng dao khác sử dụng thể thơ hỗn hợp, thể thơ lục bát, có khi lời ca là sự kết hợp của thể thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ nhưng thực chất lại là sự biến thể của thể bốn chữ do yêu cầu mở rộng nội dung câu thơ. Thể thơ này hoàn toàn phù hợp với nhận thức của trẻ
Vd:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè…
Lời ca của Đồng dao có vị trí quan trọng trong việc thực hiện trò chơi âm nhạc bởi giúp trẻ dễ nhớ, dễ phát âm, nội dung lời ca có mối liên hệ mật thiết với môi trường xung quanh, sự vật hiện tượng, nội dung trò chơi. Đặc biệt phần lời ca hỗ trợ cho động tác vận động của trò chơi linh hoạt phong phú và hấp dẫn.
Vd:
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật…
Phần lời ca rất thực tế với hình ảnh quen thuộc ăn sâu vào thế giới tâm hồn trẻ thơ ngay từ lúc còn rất nhỏ như: cái cống, con ong, củ khoai chấm mật... kết hợp với lời thơ chân thành, giản dị là việc chơi trò chơi Nu na nu nống.
2. Đặc điểm âm nhạc
Về mặt tiết tấu, Đồng dao là những bài hát có cấu trúc nhịp theo chu kỳ lặp đi lặp lại và nói theo tiết tấu. Đặc điểm này phù hợp với khả năng âm nhạc học sinh tiểu học, có 2 loại tiết tấu theo chu kỳ là:
Loại thứ nhất: Cấu trúc theo chu kỳ đơn
Là những bài Đồng dao có loại nhịp điệu thuần nhất thuộc nhóm cấu trúc tiết tấu chu kỳ đơn như: Nu na nu nống, Kéo cưa lừa xẻ... được trẻ ngắt nhịp theo hơi thở từng câu với phần nhịp điệu quan trọng, sơ đồ nhịp điệu gồm 3, 4 âm tiết 1 câu:
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì ăn cơm vua…
Nhìn chung, đa số bài Đồng dao ít mang tính giai điệu, sự cảm âm chính xác lứa tuổi này bước đầu bộc lộ. Vì vậy, bài Đồng dao dưới dạng vần vè, diễn xướng, nhịp điệu rõ ràng là phù hợp nhất với sự phát triển tâm sinh lý học sinh tiểu học.
Loại thứ hai: Cấu trúc theo chu kỳ phức
Là những bài Đồng dao viết ở nhiều dạng (thường là hai) nhịp điệu kết hợp theo lối xen kẽ hoặc luân phiên.
Bài Đồng dao sử dụng cấu trúc thang 4 âm, các âm son - si - đô - rê là âm ổn định thay nhau xuất hiện, kết hợp giai điệu ở âm khu cao, sử dụng 2 loại nhịp điệu là loại 6 âm tiết nhịp và 8 âm tiết nhịp , xen kẽ tiết tấu lượn sóng uyển chuyển, các bước nhảy quãng hẹp tạo ổn định về giai điệu đậm chất Tây Bắc.
Về mặt nhịp điệu, Đồng dao gắn liền với trò chơi và chủ yếu là đồng bộ mối quan hệ trường độ nốt đơn, đơn chấm dôi hoặc nốt đen, tiết tấu ở thể thơ có ca từ chẵn, trọng âm rơi vào từ chẵn và thể thơ 3 chữ, 5 chữ, 7 chữ trọng âm rơi vào từ lẻ. Nhịp điệu đã ghi nhận Đồng dao là thể loại âm nhạc dân gian cho trẻ với phần lời thơ được chuyển tải dưới dạng mô hình tiết tấu đồng bộ như:
Cấu trúc nhịp điệu theo kiểu chu kỳ là nét đặc trưng trong Đồng dao. Trong đó, mỗi bài lại tồn tại dưới dạng trò chơi riêng và có lối chơi nhất định, mang tính tổ chức chặt chẽ. Nếu bài Đồng dao viết ở chủ đề lao động thì phần nội dung gắn liền với hình thức công việc. Nhịp điệu có nhiệm vụ tổ chức liên kết hành động nhiều người thành thể thống nhất như trong bài: Xỉa cá mè, Bắc kim thang sử dụng phần cao trào bằng cách mở rộng nhịp điệu câu cuối đã phá vỡ đi tính chu kỳ thông thường.
Về đặc điểm thang âm: Đồng dao là thể loại hát nói, đọc diễn cảm nên phần thang âm xây dựng trên khoảng âm hẹp, đơn giản, dễ hát, dễ nhớ, phù hợp đặc điểm tâm sinh lí của các em học sinh tiểu học. Như bài Bắc kim thang viết ở điệu thức 5 âm điệu Son cung:
Âm son là âm ổn định nhất trong bài, xuất hiện liên tiếp tạo nên nét giai điệu vui tươi, trong sáng, kết hợp bước nhảy quãng 2, quãng 3 (h1- a1, d1 e1, g1 - e1) là chủ yếu. Phần lời ca đậm chất Nam Bộ qua những từ: cà lang bí rợ, kèo, té, chi… là từ đặc trưng trong cách nói người Nam Bộ.