Câu hỏi: Đọc thông tin và quan sát hình 13.2, hãy phân tích các hệ quả địa lí - lịch sử của việc C.Cô-lôm-bô phát kiến ra châu Mỹ?
Lời giải:
Từ hình 13.2, ta có thể phân tích các hệ quả địa lí - lịch sử của việc C.Cô-lôm-bô phát kiến ra châu Mỹ như sau:
- Việc phát kiến ra châu Mỹ mang lại hiểu biết mới về những vùng đất mới, những dân tộc mới và những nền văn minh mới.
- Từ sự kiện này, người châu Âu đã được mở đường đến khai phá châu Mỹ.
- Ngoài ra phát kiến ra châu Mỹ cũng dẫn đến quá trình di cư từ châu Âu, châu Phi, châu Á đến châu Mỹ, làm thay đổi đặc điểm dân cư, văn hóa, lịch sử của châu lục này.
>>> Xem đầy đủ: Soạn Địa 7 Bài 13: Vị trí địa lí, phạm vi và việc phát kiến ra châu Mỹ
Kiến thức mở rộng về Châu Mỹ
Địa lý
Xem thêm thông tin: Địa lý Bắc Mỹ và Địa lý Nam Mỹ
Điểm cực Bắc của châu Mỹ nằm trên đảo Kaffeklubben, cũng là điểm trên mặt đất ở cực bắc của Thế giới. Điểm cực Nam nằm trên quần đảo Nam Thule, mặc dù đôi khi chúng được coi là một phần của châu Nam Cực.
Lục địa châu Mỹ có chiều Bắc Nam dài nhất trong số các châu lục. Khoảng cách từ 2 cực của nó, bán đảo Boothia ở phía Bắc Canada và Mũi Froward tại Patagonia của Chile là gần 14.000 km (8.700 mi).
Điểm cực Tây của phần lục địa nằm trên bán đảo Seward tại Alaska; đảo Attu, xa hơn về phía tây bờ biển Alaska, được coi là cực Tây của châu Mỹ. Ponta do Seixas ở Đông Bắc Brasil là điểm cực Đông của lục địa, trong khi Nordostrundingen tại Greenland, là điểm cực Đông của toàn châu lục.
Định cư
Các chi tiết về việc những người Indien cổ đã di cư đến và tỏa ra khắp châu Mỹ vào khoảng thời gian và bằng tuyến đường nào vẫn còn là chủ đề tranh luận. Các lý thuyết truyền thống cho rằng những người này đã đến châu Mỹ bằng cầu lục địa Beringia giữa đông Siberi và Alaska ngày nay vào khoảng từ 40.000-17.000 năm trước, khi mực nước biển bị giám xuống đáng kể do ảnh hưởng của kỷ băng hà Đệ Tứ. Những người này được cho là đã đi theo các loài động vật cực to lớn mà nay đã tuyệt chủng theo các hành lang không bị đóng băng kéo dài giữa các phiến băng Laurentide và Cordillera và rồi họ tiếp tục đi bộ hoặc sử dụng các tàu thuyền nguyên sơ để di cư từ Tây Bắc Thái Bình Dương (phía Tây Bắc Mỹ) đến bờ biển Nam Mỹ. Bằng chứng của sự kiện về sau có được khi mực nước biển dâng lên hàng trăm mét sau kỉ băng hà cuối cùng.
Các nhà khảo cổ cho rằng những người Indien cổ đã di cư ra khỏi Beringia (Đông Alaska), đến một nơi nào đó trong khoảng từ 40.000-16.500 năm trước. Một vài đồng thuận đạt được cho đến nay là những người này có nguồn gốc từ Trung Á, và đã cư trú rộng rãi ở châu Mỹ vào cuối của kỷ băng hà cuối cùng, khoảng 16.000-13.000 năm trước.
Người Inuit di cư đến phần Bắc Cực của Bắc Mỹ theo 1 làn sóng di cư khác, và họ đến vào khoảng năm 1000 SCN. Cùng với thời điểm người Inuit di cư đến Bắc Mỹ, những người định cư Viking bắt đầu tới Greenland vào năm 982 và Vinland một thời gian ngắn sau đó,lập nên 1 khu định cư tại L'Anse aux Meadows, gần điểm cực Bắc của Newfoundland. Những người định cư Viking nhanh chóng rời bỏ Vinland, và biến mất khỏi Greenland vào năm 1500.