logo

Đoạn văn cảm nhận về nhân vật Từ Hải

Ngòi bút Nguyễn Du tài tình khi khắc họa những nhân vật trong Truyện Kiều luôn chân thật, sống động, vừa có nét chung, vừa có nét riêng nổi bật về tâm lí, tính cách. Bài viết dưới đây là một số mẫu đoạn văn cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, mời các bạn tham khảo nhé!


Mẫu số 1

Đoạn văn cảm nhận về nhân vật Từ Hải

    Dưới ngòi bút pháp nghệ thuật miêu tả tài tình,  đoạn trích Chí khí anh hùng trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du nói lên lí tưởng của người anh hùng mang ước mơ, hoài bão chinh chiến Từ Hải. 

    Từ Hải là một con người điển hình cho đấng nam nhi trong thời phong kiến với khí thế anh dũng, ý chí quật cường, dù có vướng vấn là ái tình với Kiều nhưng vẫn một lòng hướng về mục đích cao đẹp của bản thân, chính là vùng vẫy giữa cuộc đời.

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong

Bốn câu thơ đầu đã một phần thể hiện chí khí của của bậc anh hùng Từ Hải. Dù đang sống hạnh phúc “Hương lửa đương nồng” với Kiều nhưng sự khát khao được thống lĩnh đất trời đã trở thành sức mạnh không một điều gì có thể cản phá nổi. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ “Thoắt, động lòng bốn phương, thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong” nhằm thể hiện khí thế hiên ngang của bậc quân tử, sẵn sàng lên đường hướng về biển trời mênh mông với thanh gươm, yên ngựa. Qua đó ta thấy Từ Hải không chỉ là một sĩ tử với khát vọng tầm thường mà còn là một người anh hùng cứu thế với khát vọng công danh sục sôi trong tâm hồn.  

    Ý chí một lòng hướng về công danh được khắc họa rõ nét hơn trong lời đối đáp của Kiều và Từ Hải ở 12 câu thơ tiếp theo. Từ Hải mang một tâm thế cứng cỏi, dứt khoát trước lời nói của Kiều khi chia tay:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi.

Từ Hải đối đáp lại rằng:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao không thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Lời đối đáp đó không đơn giản chỉ để dứt khoát với Kiều mà còn là lời dặn dò, lời gửi gắm tới Kiều rằng chàng mong muốn Kiều có thể là người bạn đồng hành tri kỉ của mình trong cuộc sống chứ không phải là một “nữ nhi thường tình”, nàng phải là vợ của một bậc anh hùng.

    Từ Hải muốn trao cho Kiều một danh phận cao quý khi có được những chiến công vang dội, sự nghiệp vẻ vang:

Bao giờ mười vạn binh tinh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường;
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Sáu câu thơ trên, Nguyễn Du cho ta thấy Từ Hải là một con người vừa có nghĩa khí, vừa có một trái tim sâu nặng ân tình. Chàng từ biệt Kiều một cách dứt khoát bởi sự nghiệp cao cả chính là sự sống của chàng. Ngoài mặt dứt khoát là thế, nhưng trong tâm chàng vẫn lo lằng cho Kiều khi theo mình sẽ phải chịu nhiều vất vả, thiệt thòi khi phải bôn ba khắp trốn. Một điều nữa, Từ Hải còn muốn gửi gắm ở Kiều sự tin tưởng, trông cậy đợi chờ bản thân mình:

Đành lòng chờ đón ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì?

    Với niềm tin vững vàng vào bản thân, Từ Hải tự tin hẹn với Kiều rằng một năm nữa nhất định sẽ trở về với mười vạn binh tinh, tiếng vang khắp trời để đem lại sự vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hằng mong nhớ. Tình cảm bao la là thế nhưng Từ Hải ra đi không chút vấn vương, quỵ lụy:

Quyết lời dứt áo ra đi, 
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Ở đây ta thấy được cử chỉ và hành động rứt khoát “quyết” ra đi mà không do dự, công tư phân minh và không để tình cảm lấn áp lý tưởng cao đẹp. Nguyễn Du đã mượn hình ảnh “chim bằng” tượng trưng cho sự dũng mãnh, phi thường của người anh hùng với lí tưởng cao đẹp. Sự ra đi dứt khoát của Từ Hải như những cánh chim tung bay thẳng cánh tiến đến chân trời cao vút.

    Từ Hải dưới ngòi bút của Nguyễn Du được khắc họa đặc sắc thể hiện khát khao rực cháy của công lí trong bối cảnh tồi tàn của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để chinh phục đất trời, tìm lại công lí. Đó cũng chính là ước mơ, hoài bão của Nguyễn Du gửi gắm vào nhân vật. Bên cạnh đó, tác giả còn gửi gắm bài học đầy nhân văn về tinh thần đấu tranh, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ lý tưởng cao đẹp của mỗi con người trong toàn xã hội.


Mẫu số 2

Đoạn văn cảm nhận về nhân vật Từ Hải

    Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Nổi bật là tác phẩm Truyện Kiều khắc họa số phận bất hạnh trong cuộc đời của Thúy Kiều và ngợi cả phẩm chất cao đẹp của bậc anh hùng. Tiêu biểu cho hình ảnh người anh hùng cao đẹp đó là đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói về hình ảnh Từ Hải và phẩm chất cao quý của chàng.

    Mở đầu đoạn trích là hoàn cảnh chung sống hạnh phúc của Thúy Kiều và Từ Hải tưởng chừng không thể xa cách. Vậy mà Từ Hải đã động lòng với bốn phương, rời xa người thương yêu để lên đường vì sự nghiệp cao cả mà không luyến tiếc:

Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong

Nguyễn Du khắc họa tính cách nhân vật Từ Hải vừa là một người nặng tình nghĩa, vừa là một tráng sĩ với tinh thần bất diệt. Trước khi gặp được Thúy Kiều, Từ Hải đã là một bậc anh hùng phiêu bạt bốn phương. Nay tuy đã động lòng trước “hương lửa đương nồng” với nàng Kiều, nhưng chàng không thể quên đi được nghĩa tử cao đẹp, không những gửi gắm tình cảm với Thùy Kiều mà còn “động lòng bốn phương”. Tâm trí của chàng giờ chỉ hướng về “trời bể mênh mang”, chàng sẵn sàng thẳng tiến lên đường chỉ cần một thanh gương, yên ngựa.

    Thúy Kiều biết nếu đi theo Từ Hải sẽ sống bôn ba nay đây mai đó nhưng vì tình yêu nàng vẫn kiên quyết xin đi cùng chàng, muốn gắn bó, đồng hành cùng người thương bởi “phận gái chữ tòng”, hết lòng theo sau gánh vác công việc cùng chồng:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi.

Trước khẩn cầu đó, Từ Hải đối đáp lại rằng:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao không thoát khỏi nữ nhi thường tình?

“Tâm phúc tương tri” có nghĩa là hai tấm lòng đã thấu hiểu sâu sắc nhau. Ấy thế mà lại “không thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Từ Hải vừa trách móc vừa muốn khuyên nhủ Thúy Kiều rằng phải cứng cỏi, gạt bỏ đi suy nghĩ lạc hậu để xứng đáng là phu nhân của bậc trượng phu. Quá đó, ngầm coi Thúy Kiều là tri kỉ của cuộc đời. Từ Hải không cho Thúy Kiều đi cùng mình bời chàng hiểu rõ thế sự của cuộc đời, Thúy Kiều đi theo sẽ phải chịu khổ:

Bao giờ mười vạn binh tinh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường;
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

    Từ Hải quả là một anh hùng xuất chúng với khí thế oanh liệt. Chàng tự tin khẳng định rằng dù xuất phát chỉ có một thanh guowmg và yên ngựa nhưng sẽ quay trở về với “mười vạn binh tinh, tiếng chiêng vang trơi,f bóng tinh rợp đường”. Chàng sẽ mang lại sự vẻ vang và cơ đồ to lớn để trao danh phận cao quý cho tri kỉ của cuộc đời mình. Chàng hành xử khéo léo để an ủi Thúy Kiều, tạo niêm tin và an tâm chờ đợi mình nhất định một năm sau sẽ trở về:

Đành lòng chờ đón ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì?

    Kết thúc đoạn trích là khát vọng phi thường của Từ Hải khi dứt khoát ra đi trước tình cảm sâu nặng với người thương:

Quyết lời dứt áo ra đi, 
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Dứt lời chia tay với Thúy Kiều, Từ Hải quyết dứt áo ra đi mà không chút lưu luyến, do dự. Từ Hải cảm nhận được đây là thời điểm chín muồi cho “chim bằng” cất cánh cùng gió và mây tiến đến chân trời xa vời, chinh phục đất trời. Nguyễn Dũ đã sử dụng các từ ngữ điển tich, điển cố để khẳng định quyết tâm vững vàng của bậc anh hùng tạo nên một sự nghiệp vẻ vang với nhiều giá trị cao quý.

    Đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói lên lí tưởng về ước mơ phi thường của bậc anh hùng với những phẩm chất đáng có Từ Hải. Đó cũng chính là tâm tư mà Nguyễn Du muốn gửi gắm đến độc giả, mỗi con người chúng ta hãy cứ ước mơ và sống hết mình với nghĩa tử cao đẹp, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội.


Mẫu số 3

    Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

    Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một mình với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ “thoắt” thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của dạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.

    Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

    Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

    Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

    Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

    Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngáy ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

    Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

    Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.


Mẫu số 4

    Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng.

    Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải. Tác giả dựng lên hình ảnh "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgic không? Không, vì hai chữ "thẳng rong" có người giải thích là "vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh.

Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói:

Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".

Từ Hải đã đáp lại rằng:

Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".

    Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự:

Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

    Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống:

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!

Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

    Tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu:

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

    Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.

    Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thỏa chí tung hoành "diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt". Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh: "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.

    Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.

    Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.


Mẫu số 5

     Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng lại phải chịu kiếp bạc mệnh, suốt quãng đường 15 năm sóng gió của mình nàng đã phải trải qua rất nhiều cuộc chia tay cả về tình thân lẫn tình yêu. Thế nhưng khác với các cuộc chia tay đầy đớn đau, ly biệt như cuộc chia tay Kim Trọng đầy xót xa hay cuộc chia tay Thúc Sinh, thì cuộc chia tay với Từ Hải, lại là cuộc chia tay tiễn người anh hùng đi gây dựng sự nghiệp lớn lao, để người thỏa chí làm trai trong xã hội phong kiến.

    Sở dĩ người biên soạn đặt tên đoạn trích là Chí khí anh hùng là để khắc họa dáng vẻ cái thế, uy phong của người anh hùng Từ Hải thông qua cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và nhân vật này.

    Chí khí anh hùng của Từ Hải được thể hiện trước hết là ở thời điểm Từ Hải quyết tâm dứt áo ra đi để lập nên sự nghiệp “Nửa năm hương lửa đương nồng”. Đây là giai đoạn mà cuộc sống hôn nhân đang độ ngọt ngào, thắm thiết nhất, đặc biệt là đối với đôi trai tài gái sắc, sớm đã phải lòng nhau từ cái nhìn đầu tiên thì đó lại càng là khoảng thời gian gắn bó và tươi đẹp vô cùng.

    Tiếp theo, chí khí anh hùng của Từ Hải không chỉ thể hiện ở quyết tâm, ở hành động ra đi dứt khoát mà còn thể hiện rất rõ qua đoạn đối thoại với Thúy Kiều. Kiều vốn là một người phụ nữ thông minh, là tri kỷ nên rất thấu hiểu Từ Hải, vì vậy khi thấy trượng phu của mình nhanh chóng quyết định lên đường làm nghiệp lớn, bản thân nàng không hề có ý ngăn cản, mà chỉ muốn được làm tròn bổn phận của một người vợ “phận gái chữ tòng”, muốn xin đi theo Từ Hải cho tiện bề chăm sóc. Thế nhưng Từ Hải đã đáp lại lời nàng rằng:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng rợp đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Lời ước hẹn này vừa thể hiện sự động viên của Từ Hải dành cho Kiều về việc chắc chắn sẽ có một thành quả tốt đẹp ở phía trước, đồng thời cũng cho thấy sự tự tin của Từ Hải và ý thức về tài năng xuất chúng, hơn người của bản thân mình.

   Bên cạnh đó Từ Hải cũng có những lời an ủi, lo lắng, giải thích cho Thúy Kiều “Bằng nay bốn bể không nhà/Theo càng thêm bận biết là đi đâu” để Thúy Kiều an lòng ở lại. Đồng thời ở hai câu thơ này ta còn lờ mờ nhận ra đằng sau nó là sự cô đơn, lạc lõng của Từ Hải trong giây phút bắt đầu gây dựng công danh sự nghiệp, khi có biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ trước mắt đang chờ, mà theo như Lỗ Tấn nói là “Người anh hùng múa kích trên sa mạc”.

    Cuối cùng chí khí anh hùng của Từ Hải còn được thể hiện ở không gian lớn rộng được thể hiện trong các hình ảnh “bốn phương”, “trời bể mênh mang”, “bốn bể”, “gió mây” , “dặm khơi”, hình ảnh cánh chim “bằng”. Đây đều là những hình ảnh gợi ra bối cảnh không gian khoáng đạt rộng lớn, góp phần nâng tầm vóc của người anh hùng mang hùng tâm tráng chí Từ Hải lên sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ. Bên cạnh đó còn thể hiện chí lớn của người anh hùng khao khát được vẫy vùng, tùng hoành trong bốn bể. Câu thơ “gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” tập trung, tổng hợp khái quát lại hình ảnh của người anh hùng Từ Hải trong giây phút lên đường để thực hiện chí lớn.

    Đoạn trích Chí khí anh hùng tập trung khắc họa hình tượng nhân vật Từ Hải, với hai điểm chính là phẩm chất, chí khí phi thường và khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của nhân vật, đồng thời gửi gắm ước mơ về tự do và công lý trong bối cảnh từ túng của xã hội cũ.

    Về nghệ thuật, tác giả đã xây dựng Từ Hải thành một hình tượng có tính ước lệ qua việc sử dụng các từ ngữ hình ảnh, qua các hành động cử chỉ vốn đã trở thành kinh điển khi nói về hình tượng người anh hùng. Không chỉ vậy, Từ Hải còn mang hình tượng con người của vũ trụ gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả.


Mẫu số 6

    “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ thành công trong việc khắc họa số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời nêu cao khát vọng vươn tới những điều tươi đẹp hơn của nhân dân Việt Nam qua nhân vật Thúy Kiều và cuộc hành trình đầy gian truân của nàng; mà còn thể hiện rõ thái độ khẳng định, ngợi ca đối với người anh hùng của Nguyễn Du. Chúng ta có thể thấy rõ được hình ảnh người anh hùng đẹp đẽ này qua nhân vật Từ hải, tiêu biểu là ở đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

    Đoạn trích “Chí khí anh hùng” được đặt ở hoàn cảnh: sau khi Từ Hải cứu Kiều khỏi lầu xanh, hai người sống hạnh phúc được nửa năm thì Từ Hải đã từ biệt Thúy Kiều để ra đi lập sự nghiệp lớn. Đoạn trích bao gồm 18 câu (từ câu 2213 đến câu 2230) và có thể được phân thành ba phần – giới thiệu khái quát về Từ Hải, cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều, hình ảnh Từ Hải ra đi. Qua “Chí khí anh hùng” , tác giả đã không chỉ gửi gắm lí tưởng của mình mà cả ước mơ lãng mạn của ông lẫn những con người bị áp bức trong xã hội xưa vào hình tượng người anh hùng Từ Hải.

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”

Cụm từ “hương lửa đương nồng” ám chỉ cuộc sống vợ chồng Từ Hải – Thúy Kiều đang nồng ấm, tuy nhiên Từ Hải lại không thấy mãn nguyện với cuộc sống bấy giờ mà thầm khao khát một thứ gì đó lớn lao hơn ở “bốn phương” – khao khát được tung hoành nơi bốn bể, được ra đi để gây dựng sự nghiệp lớn của người trượng phu.

    Sự quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn của Từ Hải được thể hiện ở những từ ngữ đầu tiên như “thoắt”. Đó là cách xử sự bất thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình.

    Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình. Cụm từ “động lòng bốn phương” theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho Từ Hải “không phải người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chính vì thế, chàng hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng:

“Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.

Không gian trời bể mênh mang, con đường thẳng đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng cụm từ “lên đường thẳng rong” nhằm gợi lên dáng vẻ hiên ngang, sẵn sàng lên đường của Từ Hải. Bằng việc sử dụng cảm hứng vũ trụ, các cụm từ mang tính gợi hình, gợi cảm cao, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải – con người mang trong mình những hoài bão lớn lao, từ đó thể hiện rõ tính cách của nhân vật này.

    Mười hai câu thơ tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Từ Hải nhẹ nhàng trách móc Kiều, cho rằng nếu cả hai đã hiểu rõ nhau, đã biết rõ tâm tư tình cảm dành cho nhau, vậy cớ sao nàng vẫn chưa thể thoát khỏi sự ủy mị của một người phụ nữ tầm thường, sao nàng vẫn còn tin vào những lễ giáo phong kiến lạc hậu, cũ kĩ mà không hiểu mình hơn. Lời nói của chàng không chỉ là những lời trách móc nhẹ nhàng mà còn là lời động viên, an ủi Thúy Kiều, nhắc nhở nàng nên thấy tự hào về bản thân khi được đánh giá cao hơn những người phụ nữ khác.

    Từ Hải khẳng định chỉ khi nào ước mơ của mình được toại nguyện – có một cơ đồ vững chắc để tỏ rõ mặt phi thường thì chàng mới rước Kiều nghi gia theo cách đường hoàng nhất, long trọng nhất. Điều này không chỉ nêu cao chí khí anh hùng mà cả sự chu đáo, quan tâm sâu sắc của Từ Hải dành cho Kiều. Chàng không muốn vợ mình phải chịu khổ với mình trong những tháng ngày “màn trời chiếu đất”, “bốn bể không nhà” nên càng không muốn đưa Kiều theo cùng.

Kết thúc đoạn trích là những câu thơ gợi tả về hình ảnh Từ Hải ra đi lập nghiệp:

Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Dứt lời chia tay nàng Kiều, Từ Hải đã một mạch lên đường, dứt khoát, không chút do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc hay cản bước tiến của người anh hùng. Bởi bây giờ chính là thời điểm chim bằng bay lên cùng gió mây – thời điểm người anh hùng của chúng ta tỏa sáng khí chất giữa muôn trùng sông núi.

    Tóm lại, bằng việc kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật, các hình ảnh ước lệ với cảm hứng vũ trụ và tài năng miêu tả tính cách nhân vật của mình, Nguyễn Du đã thể hiện rõ thái độ khẳng định, ngợi ca đối với người anh hùng Từ Hải. Từ Hải không phải là người anh hùng hiện thực mà là hình tượng người anh hùng lãng mạn mang dấu ấn quan niệm của tác giả.

    Nói cách khác, Nguyễn Du đã gửi gắm những lí tưởng anh hùng của mình vào nhân vật Từ Hải để thầm bộc lộ ước mơ của ông, cũng là của những con người bị áp bức trong xã hội phong kiến xưa. Bên cạnh đó, nhà thơ cũng muốn để lại nhiều bài học đáng quý cho người đời sau thông qua hình tượng nhân vật này – luôn luôn đấu tranh bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ phải vì tương lai của bản thân mỗi người, của gia đình và toàn xã hội.

---------------------------------

Trên đây là một số bài cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” do Toploigiai biên soạn, rất mong có thể giúp anh cho quá trình học tập của các bạn. Chúc các bạn học tập thật tốt.

icon-date
Xuất bản : 25/11/2022 - Cập nhật : 04/09/2023