logo

Dàn ý thuyết minh về cây lúa lớp 9

Hướng dẫn lập Dàn ý thuyết minh về cây lúa lớp 9 hay nhất. Với các bài dàn ý và văn mẫu được Top lời giải tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 


Dàn ý thuyết minh về cây lúa lớp 9 - Mẫu số 1

I. Mở bài: Giới thiệu về cây lúa nước

II.Thân bài

1. Khái quát (trong trường hợp không rõ về nguồn gốc chính xác thì các em chỉ cần nêu khái quát cơ bản)

- Cây lúa là một cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc và rất quan trọng đối với người dân Việt Nam

- Là cây lương thực chủ yếu của người dân Việt Nam và các nước trên thế giới

2. Chi tiết về cây lúa

* Đặc điểm của cây lúa

- Cây lúa sống ở dưới nước

- Thuộc loại cây một lá mầm

- Là loài cây tự thụ phấn

* Cấu tạo của cây lúa: gồm 3 bộ phận

- Rễ: bộ rễ lúa thuộc loại rễ chùm. (Những rễ non có màu trắng sữa, rễ trưởng thành có màu vàng nâu và nâu đậm, rễ đã già có màu đen.)

- Thân lúa: Thân lúa gồm lá lúa, bẹ lúa, lá thìa và tai lá

+ Bẹ lá: Là phần đáy lá kéo dài cuộn thành hình trụ và bao phần non của thân.

+ Phiến lá: Hẹp, phẳng và dài hơn bẹ lá (trừ lá thứ hai).

+ Lá thìa: Là vảy nhỏ và trắng hình tam giác.

+ Tai lá: Một cặp tai lá hình lưỡi liềm

Chức năng của thân: Chống đỡ cơ học cho toàn cây, dự trữ tạm thời các Hydrocacbon trước khi lúa trổ bông. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, chăm sóc hợp lý, đảm bảo cho bộ lá khỏe, tuổi thọ lá lúa sẽ chắc hạt, năng suất cao.

- Ngọn: đây là kết quả của quá trình thụ tinh, nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín có màu vàng và người nông dân gặt về để thu hạt thóc làm thực phẩm.

* Cách trồng lúa:

+ Hạt lúa ủ thành cây mạ

+ Mạ lúa cấy xuống thành cây lúa

+ Chăm sóc tạo nên cây lúa trưởng thành và trổ bông

+ Lúa chín gặt về thu hoạch được hạt thóc.

* Vai trò của cây lúa:

- Trong cuộc sống thường ngày: Chế biến thành cơm - lương thực chính trong bữa cơm của người Việt và các loại thực phẩm khác như bột mì, phở, ...

- Trong kinh tế: Buôn bán và xuất khẩu lúa gạo

* Thành tựu về lúa ở Việt Nam:

- Ngày nay, Việt Nam đã lai tạo hơn 30 loại giống lúa khác nhau và được công nhận là giống lúa quốc gia.

- Từ một nước nghèo đói, lạc hậu thì giờ đây Việt Nam nay là nước thứ 2 xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan.

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ và ý nghĩa của cây lúa.


Dàn ý thuyết minh về cây lúa lớp 9 - Mẫu số 2

I) Mở bài:

- Từ bao đời nay, cây lúa đã gắn bó và là một phần không thể thiếu của con người Việt Nam

- Cây lúa đồng thời cũng trở thành tên gọi của một nền văn minh – nền văn minh lúa nước ở nước ta.

II) Thân bài:

1. Khái quát:

- Cây lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc.

- Là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và của Châu Á nói riêng.

2. Chi tiết:

* Đặc điểm, hình dạng, kích thước:

- Lúa là cây có một lá mầm, rễ chùm.

- Lá bao quanh thân, có phiến dài và mỏng.

- Có 2 vụ lúa: Chiêm, mùa.

* Cách trồng lúa: Phải trải qua nhiều giai đoạn:

- Từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ.

- Rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng

- Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân.

- Ruộng phải sâm sấp nước.

- Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm có, bón phân, diệt sâu bọ.

- Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo…

* Vai trò của cây lúa và hạt gạo:

- Vấn đề chính của trồng cây lúa là cho hạt lúa, hạt gạo.

- Có nhiều loại gạo: Gạo tẻ, gạo nếp (dùng để làm rất nhiều loại bánh như bánh chưng, bánh dày, bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh phở, cháo,…)…

- Nếu không có cây lúa thì rất khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực độc đáo của Việt Nam.

* Tác dụng:

- Ngày nay, nước ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia.

- Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về sản xuất gạo.

- Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt Nam

III) Kết bài:

- Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt

- Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.


Dàn ý thuyết minh về cây lúa lớp 9 - Mẫu số 3

1. Mở bài

- Gắn liền với hình ảnh làng quê Việt Nam là hình ảnh đồng lúa bao la, trải dài bát ngát.

- Cây lúa mang lại nhiều giá trí tốt đẹp.

2. Thân bài:

2.1. Nguồn gốc

- Xuất phát từ cây lúa dại và được người dân đưa vào trồng trọt khoảng hơn vạn năm trước.

- Trong dân gian lưu truyền cây lúa được phát hiện bởi một đôi vợ chồng do nạn đói phải di cư vào rừng và vô tình phát hiện ra hạt giống lúa nhờ săn bắt chim rừng.

2.2. Chủng loại

Lúa tại Việt Nam có hai loại chính: lúa nếp và lúa tẻ.

- Lúa nếp: lúa có hạt thóc ngắn thuôn dài hơn lúa tẻ, thường dùng để nấu xôi, rượu, bánh chưng,…

- Lúa tẻ: lúa có hạt thóc khá nhỏ, dùng làm lương thực chính trong các bữa ăn

2.3. Đặc điểm

- Lúa là cây thân cỏ, có thể đạt tới chiều cao tối đa khoảng 2m

- Rễ chùm, dài tối đa lên tới 2 hoặc 3 km

- Màu lá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển, lá dẹp, dài

- Hoa lúa: màu trắng, có nhụy và nhị hoa nên có thể tự thụ phấn thành các hạt thóc nhỏ

2.4. Quá trình phát triển

- Người nông dân gieo mạ vào khoảng đầu xuân, gần tết.

- Trước khi trồng tại ruộng thì mạ được gieo ở một khu đất riêng, mạ được ủ tại đó khoảng 3, 4 tuần để phát triển thành cây con.

- Người nông dân nhổ mạ và bắt đầu cấy lúa tại ruộng.

- Từ mạ thành cây con được gọi là thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng

- Thời kỳ tiếp theo là thời kỳ sinh trưởng sinh thực: mạ ra hoa trắng, hoa lúa trổ bông tạo thành các hạt thóc được bao bọc một lớp vỏ xanh bên ngoài.

- Thời kỳ lúa chính là khi những hạt lúa xanh dần chuyển màu vàng nhạt, cây trĩu xuống, lá đầy ngọn ngả dần về màu vàng.

2.5. Giá trị

- Giá trị sử dụng

+ Lúa là lương thực của người dân, là thành phần của nhiều thực phẩm, món ăn hàng ngày như bún, phở, bột mỳ,bột nếp,….

+ Là nguồn lợi nhuận của người trồng thương mại hóa

- Giá trị tinh thần

+ Gắn bó hơn vạn năm với người dân Việt Nam

+ Việt Nam xếp thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới

3. Kết bài

Tương lai của cây lúa

- Lúa chiếm giữ một vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân

- Dù qua nhiều thập kỷ nhưng vị trí cây lúa không hề thay đổi.

Dàn ý thuyết minh về cây lúa lớp 9 hay nhất

Ngoài ra, các em cùng Top lời giải tham khảo thêm bài thuyết minh về cây lúa nhé!

Thuyết minh về cây lúa - Bài mẫu 1

Đất nước Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Vì thế từ bao đời nay cây lúa đã gắn liền với nỗi nhọc nhằn, vất vả của người dân Việt Nam. Từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng xuất hiện những cánh đồng mênh mông bát ngát, trải dài tít tận chân mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước Việt Nam – đất nước nông nghiệp với sự gắn bó của con người và cây lúa xanh tươi.

Không biết từ bao giờ có khái niệm cây lúa có trong từ điển Việt Nam. Từ một giống cây hoang dại, cây lúa đã được con người cải tạo và thuần hóa trở thành cây lương thực chính. Để có được những hạt thóc vàng căng mẩm là bao mồ hôi, công sức của người nông dân. Hạt thóc ngâm nước, ủ lên mầm, gieo xuống bùn trở thành cây mạ xanh non. Sau khi làm đất ký mạ non được bó lại như lên ba theo mẹ ra đồng và được cắm xuống bùn sâu. Qua bàn tay chăm sóc của người dân cấy lúa đã phát triển xanh tươi thành ruộng lúa nối bờ mênh mông bát ngát.

Việt Nam có nhiều loại lúa: lúa nước, lúa nổi, lúa cạn, lúa nếp, lúa tẻ,….Có nhiều loại thơm ngon, rất nổi tiếng như lúa nàng hương, nàng thơm chợ đào,…. Nhiều giống lúa cho năng xuất cao, thích nghi ở nhiều loại đất khác nhau. Trừ những vùng quá phèn, quá mặn hoặc khô cằn. Ở đâu có nước ngọt là có trồng lúa. Tuy nhiên cây lúa thích hợp nhất vẫn là đất phù sa. Ở nước ta, nghề trong lúa phát triển mạnh ở các lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long.

Cây lúa nước là loại cây thân cỏ, tròn có nhiều giống và đốt. Giống thường rỗng, đặc ở đốt. Lá dài có bẹ ôm lấy thân. Gân lá song song. Những chiếc lá lúa giống như hình lưỡi. Dáng lá yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay bé xíu đùa giỡn với gió. Sóng lúa nhấp nhô giữa chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi bức tranh đồng quê thi vị, mượt mà. Đó là đề tài quen thơ của thơ ca nhạc họa.

Rễ lúa là rễ chùm, mọc nông trên đất. Hoa lúa mọc thành bông, không có cánh hoa. Khi nở nhụy dài ra có chùm lông có tác dụng quét hạt phấn. Quả lúa (thóc) khô có nhiều chất bột. Vỏ quả gồm vỏ trấu và vỏ cám. Vỏ cám dính sát vào hạt, còn vỏ trấu ở ngoài do máy tạo thành. Khi lúa tạo hạt, vỏ thóc xuất hiện trước bảo vệ phần tinh bột phát triển sau ở bên trong.

Vụ lúa Việt Nam phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết nên thường có những thời vụ khác nhau. Vụ lúa chiêm gieo từ tháng 10 âm lịch gặt tháng 1-2 năm sau. Vụ lúa xuân gieo từ tháng 2 âm lịch gặt tháng 4-5. Vụ lúa hè – thu gieo tháng 5-6 gặt tháng 8-9.

Hạt lúa, hạt gạo là nguồn lương thực chính của Việt Nam. Cơm gạo là thức ăn chính trong bữa ăn con người Việt Nam. Từ hạt gạo có thể chế tạo ra những đặc sản như: Bánh tráng, bánh phồng, các loại bánh nổi tiếng của vùng. Nhưng đặc biệt nó có lẽ là bánh chưng, bánh giầy và cốm.

Lúa gạo là nguồn dự trữ đảm bảo an ninh lương thực của nước ta và thế giới. Xuất khẩu gạo là nguồn kinh tế làm giàu cho đất nước. Thân lúa (rơm, rạ ) dùng để làm các chất đốt. Rơm khô là thức ăn cho gia súc và còn là nguyên liệu cho các mặc hàng thủ công mỹ nghệ.

Sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi vào xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị của nó vẫn là vị trí quan trọng nhất trong quá trình phát triển đất nước. Chẳng thế cây lúa còn được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật cao quý.

Thuyết minh về cây lúa - Bài mẫu 2

Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn. 

(Ca dao)

Hai câu ca dao ấy thật nhẹ nhàng đã đi sâu vào trái tim của hàng triệu, hàng triệu trái tim Việt Nam mỗi khi nhớ về chốn làng quê thanh bình với những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay. Và có lẽ, sẽ chẳng ai có thể quên được hình ảnh cây lúa nước – một biểu tượng một nét vẽ đơn sơ, bình dị mà rất đỗi xinh tươi trong bức tranh về làng quê Việt Nam.

Cây lúa là một trong năm loại cây lương thực chủ yếu của thế giới và là loại cây lương thực chủ đạo ở Việt Nam. Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới khu vực Đông Nam Á của châu Á và ở châu Phi. Thêm vào đó, cây lúa còn là loài thực vật thuộc một loại cỏ đã được con người thuần dưỡng, đưa vào nhân giống, cấy ghép và phát triển. Và như vậy, với nguồn gốc ấy, cây lúa có thể phát sinh, phát triển một cách nhanh chóng trong điều kiện khí hậu, thời tiết ở Việt Nam.

Nếu như những loài cây lương thực khác trên thế giới như khoai tây, bắp, lúa mì, sắn sống ở trên cạn thì cây lúa lại hoàn toàn khác. Lúa là loài cây thủy sinh, sống và phát triển chủ yếu ở môi trường nước. Thông thường, mỗi cây lúa cao khoảng 1 đến 1,8 mét. Thêm vào đó, lúa là loài cây rễ chùm, vì vậy, nó có thể bám chắc vào trong lòng đất để hút dưỡng chất, cung cấp cho quá trình sinh trưởng, phát triển.

Lúa là loài cây thân thảo, thân cây được chia làm các mắt khác nhau, bên trong thường rỗng. Ở mỗi làng quê, vào vụ gặt, lũ trẻ con thường dùng thân cây lúa để làm nên những chiếc kèn, âm thanh của những tiếng kèn ấy nghe thật vui tai, như góp phần xóa đi cái nắng nóng của mùa hè và sự mệt nhọc của những ngày mùa. Lá cây lúa hình dẹt dài và mỏng mọc bao phủ bên ngoài thân cây.

Tùy vào từng thời kì mà lá cây lúa có độ dài và màu sắc khác nhau. Thì con gái, lúa khoác lên mình những chiếc áo xanh mát và đến gần mùa thu hoạch thì lá lúa chuyển sang màu vàng.

Đặc biệt, sau một thời gian gieo trồng, cây lúa trổ bông. Bông lúa thường dài từ 35 đến 50 xăng-ti-mét, chứa rất nhiều hạt lúa, rủ xuống trông rất tuyệt. Những bông lúa ấy chính là sự kết tinh những tinh hoa của trời đất và tấm lòng, sự cần cù, chăm chỉ của những người lao động nơi chốn làng quê.

Ở nước ta hiện nay thường có hai vụ lúa chính là vụ chiêm (thu hoạch vào khoảng tháng 5, tháng 6 âm lịch) và vụ mùa (thu hoạch vào tháng 8, tháng 9 âm lịch). Song, để cây lúa có thể sinh trưởng, phát triển cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trước tiên, người nông dân phải tìm được giống lúa phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai nơi gieo trồng cây lúa.

Sau khi đã chọn được giống lúa phù hợp, người nông dân sẽ tiến hành ủ giống, đến lúc những hạt lúa giống nảy mầm, người ta sẽ gieo chúng xuống đất, chăm sóc nó đến lúc những mầm xanh nhú lên, những cây mạ xanh ra đời. Trong lúc chờ mạ lớn và cứng cáp hơn, người ta sẽ cày, bừa đất, chờ đến khi cây mạ cứng cáp rồi sẽ đem cấy xuống ruộng.

Những ruộng lúa lúc vừa cấy xuống khoác lên mình một màu áo xanh mơn mởn. Để rồi, đến lúc thì còn gái, cánh đồng lúa trở mình, mặc một chiếc áo xanh sẫm và bắt đầu hình thành bông, những bông lúa bên trong mang dòng sữa trắng ngần, ngọt ngào và thơm phức tỏa ngát cả vùng quê.

Sau một thời gian, lúc lúa ngả sang màu vàng, những bông lúa đã chín, người ta gặt nó mang về nhà rồi tuốt lúa, phơi và xát lúa để tạo nên những hạt gạo. Tuy nhiên, trong quãng thời gian từ lúc cấy lúa đến lúc thu hoạch, những con người nơi đây phải thường xuyên thăm đồng, bắt sâu, bón phân, cung cấp thêm nước để cây lúa có đủ điều kiện tốt nhất để phát triển. Quả thực, quá trình phát triển cây lúa rất phức tạp, bởi vậy đòi hỏi ở người gieo trồng rất nhiều công sức và phải chăng vì thế, nhân dân ta xưa nay vẫn thường có câu:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần (Ca dao)

Thêm vào đó, cây lúa giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của con người Việt Nam từ xưa đến nay. Từ thời xa xưa, Lang Liêu đã lấy gạo làm bánh kính dâng lên vua cha. Và cũng kể từ đấy, cây lúa đã trở thành một nét đẹp, một biểu tượng của nền văn hóa dân tộc. Trong đời sống của chúng ta ngày nay, cây lúa vẫn luôn giữ một vai tò đặc biệt quan trọng. Hạt lúa chính là nguồn lương thực chủ yếu cho chúng ta mỗi ngày.

Những hạt lúa, hạt gạo ấy chính là “hạt ngọc trời”. Gạo không chỉ dùng làm lương thực chính mỗi ngày mà nó còn là nguồn nguyên liệu làm nên nhiều thứ bánh khác nhau là đặc sản của mỗi miền, đó là bánh đa, là bánh tẻ, là bánh cuốn,… Không chỉ có hạt gạo, thân cây lúa sau khi gặt và phơi khô được gọi là rơm, nó là nguồn thức ăn cho gia súc trong nhà, đồng thời, nó là những “chiếc nệm” giữ ấm cho gia súc trong những ngày mùa đông giá rét.

Đặc biệt, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, hiện nay nước ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa khác nhau và nước ta là một trong số những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Điều đó thêm một lần nữa chứng minh cho chúng ta thấy vai trò, vị trí to lớn của cây lúa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Thuyết minh về cây lúa - Bài mẫu 3

Bây giờ tôi đã là một hạt gạo trắng thơm nằm yên trong một chiếc bao mới tinh cùng nhiều bạn bè khác và chờ chuyến xuất ngoại vào sáng mai. Tôi vừa vui mừng, kiêu hãnh vì mình đủ sức vươn ra thị trường quốc tế, vừa tự nhắc nhở mình không bao giờ được quên nguồn gốc, rằng mình là một hạt lúa Việt Nam và là con cháu của dòng họ lúa Việt.

Tôi không biết chính xác họ hàng nhà lúa chúng tôi có mặt trên Trái Đất từ bao giờ, nhưng từ khi tôi còn nhỏ, cha mẹ đã dạy chúng tôi rằng tổ tiên của mình là một loại lúa hoang phổ biến tên là Oryza sativa có nguồn gốc tại khu vực xung quanh vùng Đông Nam Á và được thuần hóa, nuôi dưỡng từ một vạn năm trước. Các tư liệu lịch sử vê' tổ tiên của chúng tôi đã hư hao và mất mát nên tôi không chắc lắm về hình dáng của cụ tổ Oryza sativa. Dù vậy, tất cả chúng tôi đểu biết rằng tổ tiên mình là một loại cầy lương thực cổ có vị trí quan trọng trong đời sống và lịch sử phát triển của con người. Ngày nay, truyền thống và vai trò ấy vẫn còn nguyên vẹn.

Từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu cũng có sự góp mặt của họ hàng nhà lúa chúng tôi. Mặc dù chúng tôi phần bố không đồng đểu trên cả nước nhưng ở đâu, chúng tôi cũng luôn nỗ lực tạo nên vẻ đẹp quê hương Việt Nam. Từ những thửa ruộng bậc thang uốn lượn trên núi đồi Tây Bắc đến những cánh đổng thẳng cánh cò bay Nam Bộ, từ những làng quê xanh lũy tre miền Bắc đến những dải lụa mểm mại của miền Trung biển xanh cát trắng, đâu đâu họ hàng lúa chúng tôi cũng mang nét đẹp rất riêng của

Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của quê hương đất nước đã gọi tên và tôn vinh chúng tôi:

Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn…

Chúng tôi đã đi vào thơ ca bằng vẻ đẹp nên thơ như thế. Dù không yêu kiều như hoa hồng, đài các như hoa mai hay mang vẻ thuần khiết như hoa sen, tôi vẫn luôn tự hào vì mình thuộc họ nhà lúa, một dòng họ trâm anh thế phiệt trong làng lương thực xưa nay. Dòng họ của tôi là dòng họ quan trọng bậc nhất trong nhóm ngũ cốc. Chúng tôi có một lá mầm với rễ chùm vững chắc, luôn miệt mài tìm kiếm nguồn dinh dưỡng quý báu từ đất và nước. Là loài thân cỏ rỗng, chúng tôi mềm yếu và dễ gục ngã trước những cơn gió hay mưa lớn nhưng chúng tôi rất đoàn kết và biết nương tựa vào nhau. Khi gió mưa đi qua, chúng tôi bên nhau nghênh đón, có khi cùng đổ rạp về một phía nhưng nhất định không chịu khuất phục. Chúng tôi có những chiếc lá mỏng phiến dài mọc bao quanh thần để chiếc vỏ rỗng thêm vững vàng. Không chỉ thế, những chiếc lá còn giúp chúng tôi quang hợp, dự trữ Hidratcacbon trước quá trình trổ bông. Chúng tôi cũng có hoa như các loài cây khác, nhưng đặc biệt hơn một chút, chúng tôi không có bao hoa và hoa là loài lưỡng tính, chúng tôi có khả năng tự thụ phấn mà không cẩn nhờ đến gió hay các loài khác. Đến khi trưởng thành, chúng tôi đổng loạt thay quần áo mới, cả thân, lá, quả đều ngả sang màu vàng. Ngay cả bộ rễ chùm cũng chuyển từ màu trắng non, nâu nhạt sang màu nâu sẫm, hạt gạo nằm bên trong vỏ trấu màu trắng ngày càng chắc mẩy. Mọi người gọi thời kì ấy là thời kì lúa chín, đó cũng là thời ki chúng tôi nhuận sắc nhất.

Cuộc sống của họ nhà lúa gắn liền với sự lam lũ, vất vả của người nông dân Việt Nam. Họ phải lựa chọn kĩ những hạt giống tốt. Đến khi được gieo xuống lớp đất tơi xốp, chúng tôi chắt chiu những chất dinh dưỡng từ đất để từ hạt thóc nảy mầm thành mạ non. Sau đó, chúng tôi được người nông dân đem cấy trên những cánh đồng đã cày bừa kĩ càng. Từ đó chúng tôi lại cẩn cù lao động để đem về nước và muối khoáng đi nuôi cơ thể, để những cây mạ non như chúng tôi mau chóng lớn lên, phát triển khỏe mạnh, chống lại sâu bệnh và đẻ nhánh, làm đốt, làm đòng. Chúng tôi trổ bông rồi lại làm hạt, nở hoa, thụ phấn rồi hình thành hạt chín. Từ khi chín sữa, chín sáp đến chín hoàn toàn, chúng tôi càng phải làm việc chăm chỉ hơn.

Đó là vòng đời của bất kì “cư dân” nào Trong họ lúa dù chúng tôi gồm rất nhiều giống, loài. Chia theo cách gieo trồng, chúng tôi có lúa cấy, lúa sạ, lúa trời. Chia theo thời vụ gieo trổng, chúng tôi lại có lúa chiêm, lúa mùa, lúa xuân hè, lúa hè thu và nhiểu loại khác. Ngay cả theo cách thông thường nhất, mọi người thường biết đến họ hàng chúng tôi gồm lúa nếp và lúa tẻ thì mỗi loại cũng được chia thành những loại nhỏ khác nhau. Đặc biệt, với thành tựu khoa học kĩ thuật, các kĩ sư nông nghiệp đã lai tạo được hơn ba mươi giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia nên việc phân loại trong họ hàng chúng tôi lại càng phong phú hơn.

Tạm gác lại chuyện phân loại ấy, dòng họ chúng tôi có thể trở thành dòng họ quan trọng bậc nhất trong nhóm ngũ cốc chính bởi những cống hiến

của mình. Chúng tôi tích lũy trong mình nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là tinh bột. Vì lẽ đó, tổ chức Dinh dưỡng quốc tế còn đặt cho chúng tôi cái tên hạt của sự sống, chúng tôi được 40% dân số thế giới coi là lương thực chính. Chúng tôi còn có giá trị kinh tế to lớn, vừa đem lại thu nhập trang trải cuộc sống cho người nông dân, vừa đưa Việt Nam lên vị trí thứ ba trên thế giới về xuất khẩu lúa gạo, sau Ấn Độ và Thái Lan.

Không chỉ thế, chúng tôi còn làm nên một nét đẹp trong văn hóa người Việt. Hình ảnh cánh đổng lúa và người nông dân với con trâu, cái cày sẽ mãi là biểu tượng gần gũi, thân quen của làng quê Việt Nam. chúng tôi, trên đường xuất khẩu, sẽ mang đến nước bạn không chỉ hình ảnh ấy, mà còn mang theo tên của một nền văn minh: nển văn minh lúa nước. Chúng tôi có mặt trong mọi thời điểm của cuộc đời người dân Việt Nam. Đó là những bữa ăn gia đình ấm êm, giản dị; là những bữa tiệc linh đình, sang trọng đãi khách hay những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc như tục gói bánh chưng, bánh giầy, lễ hội lồng tồng, ăn cơm mới; là những câu ca dao, tục ngữ nồng hậu:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần!

Chúng tôi hiểu rằng, mình là hiện thân của ước mơ no ấm, hạnh phúc, bình yên của người dân và được bao đời nay hi sinh máu xương để gìn giữ, bảo vệ. Chúng tôi cũng là biểu tượng in trên quốc huy và xuất hiện trong hành động giã gạo khắc trên trống đổng của đất nước thân yêu này. Ngày nay, chúng tôi còn góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch tại các vùng núi cao. Nếu các bạn đã từng thấy những ngọn núi, ngọn đổi uốn lượn nhấp nhô của vùng Tầy Bắc chắc cũng sẽ không quên bạn bè tôi trên những thửa ruộng bậc thang uốn lượn như đường vẽ mềm mại của người họa sĩ. vẻ đẹp của các bạn ấy đã được biết bao phượt thủ ghi lại trong những chuyến xê dịch đến Mù Cang Chải hay Hoàng Su Phì. Đặc biệt, các bạn lúa ở Bắc Sơn đã từng xuất hiện lộng lẫy trên báo nước ngoài, cụ thể là trang tư vấn du lịch when on earth. Chúng tôi còn 

Với vai trò và tác dụng to lớn như thế, họ nhà lúa chúng tôi được người Việt chăm sóc rất cẩn thận. Những người nông dân cần cù, chịu khó chăm sóc chúng tôi rất ân cần, từ bắt sâu, làm cỏ đến bón phân, tưới nước. ; Họ còn có những câu tục ngữ truyền lại kinh nghiệm cho nhau trong quá trình chăm sóc chúng tôi, như: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống…

Được con người chăm sóc như vậy nên chúng tôi luôn cố gắng cống hiến hết mình. Từ lúc còn là mạ non xanh mướt đến khi trổ đòng, ra hoa, kết hạt, khi tạm biệt cánh đồng trở về nhà với khói lam chiểu hay hương cơm thơm dẻo; dù ở bất cứ đâu, trong bao gạo xuất khẩu, trong chõ xôi mới đổ, trong hương cốm những ngày gió heo may, trong các loại bánh trái, chúng tôi cũng ngọt ngào hương thơm và giàu dinh dưỡng. Lúa Việt Nam sẽ luôn là niểm tự hào của người Việt trước bạn bè quốc tế!

icon-date
Xuất bản : 22/10/2021 - Cập nhật : 23/10/2021