Câu hỏi: Các quốc gia khác có quyền gì ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển?
A. Tự do hàng hải.
B. Đi qua không gây hại.
C. Không được phép đi qua.
D. Được phép, nhưng hạn chế việc đi qua.
Trả lời:
Đáp án đúng: A. Tự do hàng hải
Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Cùng Top lời giải tìm hiểu về vùng đặc quyền kinh tế nhé!
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (188 hải lý tính từ ranh giới ngoài lãnh hải, 176 hải lý tính từ ranh giới ngoài của vùng tiếp giáp). Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định riêng biệt, được hình thành từ nhu cầu quản lý tài nguyên, bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia ven biển.Trong vùng biển này, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt những công trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và đặt dây cáp và ống đẫn ngầm.Vùng đặc quyền kinh tế của nước CHXHCN Việt Nam tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở, đùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam theo tuyên bố của Chính phủ Việt Nam năm 1977.
Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
- Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
- Nghiên cứu khoa học về biển;
- Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
- Quốc gia ven biển quản lý các tài nguyên trong vùng đặc quyền về kinh tế:
+ Đối với các tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép quốc gia khác khai thác cho mình và đặt dưới quyền kiểm soát của mình.
+ Đối với các tài nguyên sinh vật, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng có thể đánh bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong khai thác và ấn định số dư của khối lượng cho phép đánh bắt. Nếu có dư, quốc gia ven biển có thể cho phép các quốc gia khác khai thác số dư thông qua điều ước hoặc thỏa thuận giữa các bên, quốc gia cần ưu tiên cho các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về địa lý.
- Quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình khỏi bị khai thác quá mức.
- Thực hiện các quyền chủ quyền nêu trên theo Công ước về Luật biển năm 1982, quốc gia ven biển có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy định mà họ đã ban hành theo đúng Công ước. Tuy nhiên, cần lưu ý:
+ Khi có sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
+ Không được áp dụng các hình phạt giam giữ cũng như các hình phạt thân thể khác nếu không có thỏa thuận khác.
+ Phải thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ vi phạm biết các biện pháp cũng như các chế tài áp dụng.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác đều được hưởng quyển tự do hàng hải, tự do hàng không...
Ví dụ như trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tuyên bố ngày 12.5.1977 đã xác lập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng 200 hải lí kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Tại những khu vực mà vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chưa ra tới hết 200 hải lí đã gặp vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia... thì ranh giới phân chia vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam với các nước liên quan được xác định trên cơ sở thoả thuận phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.