Tham khảo Bình giảng Vội vàng của Xuân Diệu, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn cảm nhận cực hay, chi tiết nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!
1. Mở bài
Giới thiệu về Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng
2. Thân bài
- Nhan đề: “Vội vàng"- một tính từ chỉ sự nhanh chóng, thúc giục, khẩn trương.
- Ước muốn của thi nhân, một ước muốn rất đẹp và đầy táo bạo:
+ Tắt nắng: màu đừng nhạt
+ Buộc gió: hương đừng bay
- Thiên đường trên mặt đất khi tháng giêng về:
+ Ong bướm bay lượn tìm hoa
+ Hoa cỏ đồng nội xanh rì
+ Lá cành tơ phất phơ trong gió
+ Tiếng chim yến anh ru khúc nhạc tình say
+ Thần niềm vui đến mỗi sớm mai
=> Tháng giêng ngon và đầy gợi cảm như làn môi của người tình nhân vậy
- Lẽ sống vội vàng và ý thức thời gian:
+ Lòng người rộng - lượng trời chật
+ Tuổi trẻ hữu hạn - thời gian vô hạn
=> Ý thức sống vội vàng để tận hưởng những vẻ đẹp cuộc đời, sống có trách nhiệm hơn với tuổi trẻ của mình.
3. Kết bài
Cảm nghĩ về bài thơ
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sống là phải tận hưởng và tận hiến! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cấu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng “tôi” – lập thuyết, đối thoại với đồng loại. Dưới, xưng “ta” – đối diện với sự sống. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên – một ước muốn không thể:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một một người tình rạo rực, trinh nguyên.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:
“Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời – gian – tuần – hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời – gian – tuyến – tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”!
Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn.
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính “lạ hoá” về thời gian và không gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”…
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” (Correspondance) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” ư – hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì sao thời gian lại mang hương vị – hình thể của chia phôi? ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi!
Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ – hiện tại – tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi đó là thời tươi và thời phai. Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược qui bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai: vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây… dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của “độ phai tàn” (thời phai) và “thời tươi”:
“Chim rộn ràng chợt dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”.
Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó.
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống:
“Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao gì nữa…
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm”
Đến đây, phần luận giải của tuyên ngôn Vội vàng đã đủ đầy luận lí!
Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là Vội vàng trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ Ta muốn ôm chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ:“Ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ
Câu thơ:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
“Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”!
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ!
Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới. Thật vậy, thơ Xuân Diệu là sự giải phóng thật sự của cái “tôi” cá nhân luôn khao khát, đắm đuối cuộc sống, tuổi trẻ, tình yêu. Vì vậy, Hoài Thanh đã nhận xét: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ…và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, tạo ra một cảm giác mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ. Có lẽ, Xuân Diệu là người đã tạo ra sự đổi mới đó một cách mạnh mẽ và thể hiện nó như một tuyên ngôn nghệ thuật trong các tác phẩm của mình: “Tôi để lòng tôi trong những câu tiếng, tôi đã gửi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói ghém hơi thở của tôi trong ít nhiều âm điệu. Và bài thơ “Vội vàng chính là điển hình cho phong cách nghệ thuật ấy”.
Xuân Diệu(1916 - 1985) tên khai sinh Ngô Xuân Diệu, bút danh Trảo Nha, quê cha ở Hà Tỉnh, quê mẹ ở Bình Định, lớn lên ở Quy Nhơn. Sau khi học xong tú tài, Xuân Diệu làm viên chức ở Mĩ Thọ sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn là 1 thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sớm tham gia Cách mạng và hoạt động văn hóa nghệ thuật rất sôi nổi trở thành gương mặt tiêu biểu cho phong trào thơ mới.
Trước Cách mạng, thơ Xuân Diệu thể hiện một tâm hồn khát khao giao cảm với đời tuy nhiên cũng nói lên nhiều chán nản hoài nghi, nhân vật trữ tình hiện diện trong thơ hết sức cô đơn. Sau Cách mạng, thơ ông chan chứa niềm tin yêu về cuộc sống về đất nước, không còn chán nản hoài nghi mà nỗ lực hoà cái riêng vào cái chung của dân tộc, vào cuộc sống xây dựng xã hội mới Vì thế Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại là “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” với các tập thơ tiêu biểu là “Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Riêng chung…. Với hồn thơ nhạy cảm với thời gian, là nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu”Xuân Diệu” còn được mệnh danh là “Ông hoàng của thơ tình
Bài thơ in trong tập Thơ thơ – tác phẩm thi ca đầu tay của “Xuân Diệu”. Khi đó nhà thi sĩ ấy là một chàng trai hiền hậu và say mê, tóc như mây vương trên đài trán ngây thơ, mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn lòng ân ái. Chàng đi trên đường thơ, hái tặng những bông hoa gặp dưới bước chân, những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Thơ thơ là cụm đầu mùa chàng tặng cho nhân gian. Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu
Câu nói Văn học không chỉ là tấm gương phản chiếu cuộc sống mà còn là sản phẩm tâm hồn của người nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm là đứa con tinh thần mà người nghệ sĩ sáng tạo và sinh ra, gửi gắm những tâm tình, nỗi lòng của chính mình với cuộc đời, với con người. Văn chương là nơi để người ta có thể thoát khỏi trần thế, phiêu du với cõi tiên, để phá vỡ những quy tắc tự nhiên vốn có.
Và thơ Xuân Diệu là một điển hình như thế. Ông gửi vào những vần thơ trong veo nỗi lòng và tình yêu hay oán trách. Sau tất cả vẫn là một tâm hồn chân thực và khát khao được sống, được cống hiến. “Tôi để lòng tôi trong những câu, những tiếng…
Với Xuân Diệu – một hồn thơ tha thiết giao cảm với cuộc đời, thơ trở thành phương tiện để giãi bày, bộc lộ những cảm xúc chân thật nhất. Không chỉ có thế tôi đã ghi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói ghém hơi thở của “Tôi trong ít nhiều âm điệu, Xuân Diệu quan niệm nhà thơ cần in dấu ấn riêng của mình trong giọng điệu ngôn từ, thế giới hình ảnh thơ,… Và Vội vàng là một bài thơ như thế – nơi mà ông Hoàng thơ tình được trải lòng cùng với trời đất, được khát khao cống hiến và hưởng thụ, nơi mà một tài năng trở thành bất diệt…
Mở đầu cho bản tình ca về cuộc sống là niềm khao khát giao cảm với đời, ước muốn níu giữ thời gian để vĩnh cửu hóa vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay đi Bằng những câu thơ ngụ ngôn, thị sĩ đã bày tỏ những ước muốn kì lạ: tắt nắng, buộc gió để giữ lại màu sắc hương vị của cuộc đời. Đó là ao ước được can dự vào quy luật của tạo hóa thật táo bạo và khác thường.
Khát vọng ấy không phải được bắt đầu từ sự nông nổi ngông cuồng của tuổi trẻ mà cháy lên từ một tâm hồn thi sĩ lãng mạn đa cảm và thiết tha yêu đời muốn được giữ mãi bên mình vẻ đẹp thanh tân của cuộc đời này, chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hóa vẻ đẹp của cuộc đời. Cũng là một nhà thơ mới,cũng là lứa tuổi của Xuân Diệu nhưng Chế Lan Viên lại viết những câu thơ buồn bã ai đâu trở lại mùa thu trước nhặt lấy cho tôi những lá vàng với của hoa tươi, muôn cánh rã về đây đem chắn nẻo xuân sang Chính vì lẽ đó ta tới thấy càng trân trọng yêu mến biết bao nhiêu tâm hồn nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu với Cuộc đời.
Bốn câu thơ năm chữ mở đầu bài thơ tự do và cách ngắt nhịp vội vã dứt khoát những điệp ngữ tôi muốn, cho kết hợp với điệp cấu trúc ngữ pháp đã tô đậm thức độ mãnh liệt nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn thi sĩ. Trong Xuân Diệu, đó còn là một giao cảm đặc biệt với thiên nhiên của cuộc sống nơi trần thế.
Nhà thơ cảm nhận cuộc đời như một khu vườn mùa xuân căng đầy nhựa sống: của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì. Này đây lá của cành tơ phơ phất của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa,Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Với thi sĩ, một năm chỉ có hai mùa xuân và thu: Xuân với thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy thu cũng là một mùa xuân (Trường Ca) Mùa xuân mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của gắn bó sinh sôi hạnh phúc. Và khu vườn xuân trong bài thơ cũng “Vội vàng” dâng sắc, tỏa hương, trao mật ngọt.
Ong bướm rộn ràng bởi những đóa hoa xuân khoe sắc thắm nổi bật giữa đồng nội xanh rì. Cành tơ phơ phất vươn dáng nõn nà trong bức tranh xuân. Ánh nắng bình minh bừng hé đầy ngạc nhiên vì thế giới xung quanh mình. Yến anh hội hè rộn rã. Tháng giêng mơn mởn da thịt xuân hồng. Một bức tranh đầy ánh sáng mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh tình tứ, rộn rã, đầy màu sắc, hương thơm và vị ngọt men say tình ái, đầy niềm vui đón chờ mỗi ban mai.
Và nhựa sống như dâng lên trong lòng tạo vật. Tất cả đều được bày sẵn, gọi mời như một bữa tiệc trần gian. Những điệp ngữ “này đây” kết hợp với những hình ảnh liệt kê mở ra trước mắt người đọc cả 1 thế giới tràn đầy xuân sắc góp phần diễn tả một điệu tâm hồn say mê hồi hả của thi sĩ có cảm giác nhà thơ mới lạc bước xuống thiên đường trần thế cho nên đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình vườn hạnh phúc.
Thiên nhiên tạo vật đầu có đôi có cặp say sưa rộn ràng và mê mải trao sắc gửi hương trong mùa tình ái dường như xui khiến lòng người rạo rực đắm say, sung sướng ngất ngây tận hưởng. Thì nhân hóa tình nhân. Nhà thơ thiết tha gắn bó với cuộc đời, mong được: sống toàn tim, toàn ý, toàn hồn Sống toàn thân và thức nhọn mọi giác quan
Để cảm nhận hết, tận hưởng tất cả mọi vẻ đẹp của cuộc sống. Chính cái nhìn trẻ cặp mắt ”Xanh non” và “Biếc rờn” luôn lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp đã tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh của người thi sĩ . Tuần tháng mật trở thành mùa bướm ong dập dìu. Cành xuân đã hóa thành cành cành tơ đầy nhựa sống.
Tiếng chim say sưa của chim yến chim oanh quấn quýt bên nhau tạo nên bản nhạc mùa xuân say đắm khôn cùng. Và bình minh xuân diễm lệ mang gương mặt của người con gái kiều diễm với rèm mi làm bằng ánh sáng. Tháng giêng – một khái niệm vốn vô hình được thi sĩ “So sánh ngon như một cặp môi gân”.
Tháng giêng mơn mởn cành tơ, môi gần gợi cảm, yêu kiều, vừa gợi cảm xúc trần thế đắm say nồng nàn của con người, vừa ấp trong tấm lòng rộng mở “sẵn lòng ân ái với cuộc đời” của tình nhân-thi sĩ. Cái nhìn trẻ ấy đã trẻ hóa thế giới già nua , làm cho nó mới mẻ đầy bất ngờ ngạc nhiên như lần đầu tiên được khám phá bởi đôi mắt chập chững sáng trong nơi tâm hồn con trẻ. Những điệp ngữ “này đây” kết hợp với hình ảnh liệt kê như mở ra trước mắt người đọc một thiên đường nơi trần thế. Một thế giới đầy điều mới lạ, tươi trẻ và muôn sắc hồng.
Đứng trước thiên nhiên vô tận, Xuân Diệu còn ý thức được sự hữu hạn của cá nhân, dự cảm lo âu về thời gian và sự ngắn ngủi của tuổi trẻ. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ lòng yêu đời, yêu sống thiết tha. Trong quan niệm của người xưa, thời gian là tuần hoàn, xuân đi rồi lại đến.
Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn tĩnh tại lấy vũ trụ làm thước đo của thời gian. Từ quan niệm ấy người xưa có một lối sống an nhiên thuận theo lẽ tự nhiên và nhận thức rằng cái chết chưa hẳn đã là hư vô: Xuân qua, trăm hoa rụng Xuân tới trăm hoa tươi Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai Xuân diệu lại có ý thức khác về thời gian:xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Với thi sĩ, thời gian của cuộc đời vẫn trôi chảy không ngừng, từng phút giây đi qua sẽ chẳng bao giờ lấy lại được .
Câu thơ trên mới đọc qua tưởng như là vô lí nhưng lại được viết nên từ những lí lẽ mang tính triết học và tâm hồn nhạy cảm của Xuân Diệu. Quan niệm đó của nhà thơ xuất phát từ cái nhìn nhìn biện chứng về vũ trụ và cuộc đời, nỗi niềm khắc khoải thời gian vẫn thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Tuy nhiên thực tế vẫn thực tế: Hoa nở để mà tàn Trăng tròn để mà khuyết, Bèo hợp để chia tan Người gần để ly biệt
Vũ trụ vẫn chuyển động như vốn dĩ, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận hơn ai hết một sự thật đáng buồn “Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, ngày hôm nay đã khác hôm qua, huống chi năm này với năm khác, nàng xuân thì trường sinh còn tuổi trẻ mỗi người đều có giới hạn. Nhà thơ đã lấy mùa xuân, tuổi trẻ làm thước đo cho cuộc đời mỗi con người.
Tuổi trẻ là khoảng thời gian quý giá nhất nhưng cũng vô cùng ngắn ngủi. Cuộc đời con người và tuổi xuân được đặt trong mối quan hệ với không gian, thời gian mênh mông vĩnh hằng:”Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” cho nên lại càng ngắn ngủi, hữu hạn biết bao nhiêu.
Khát khao của người nghệ sĩ càng vô cùng lớn lao thì giới hạn của kiếp người càng trở nên ngắn ngủi, chật chội. Đến đây cái vui rạo rực của phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn, một nỗi niềm nuối tiếc khôn nguôi đối với cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này: Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Tác giả đã tạo ra giọng tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình. Nhà thơ như đang đối thoại với ai đó đang yên tâm với quỹ thời gian bốn mùa tuần tự trôi qua không mất đi đâu. Nhà thơ đã dựng lên mối tương quan đối lập giữa các hình ảnh “Non”, “Già” “Tới” “Qua “Còn chẳng còn, vẫn tuần hoàn chẳng hai lần thắm lại đã tô đậm bi kịch của kiếp người mang tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn không bao giờ sống trọn vẹn được phần khát khao của chính mình.
Thi sĩ thấy thời gian như ngọn gió bay nhanh, lướt qua tất cả. Lúc tạo vật ở độ căng mọng nhất cũng là khi đối diện với sự ám ảnh tàn phai hủy diệt của ngọn gió thời gian. Tất cả đều bất ngờ, hụt hẫng, tiếc nuối, thảng thốt. Thời gian có mùi, có vị chia phôi. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một chia lìa một mất mát. Bao nhiêu sự vật trên thế giới này. Mỗi khoảnh khắc trôi qua đang từ giã bản thân mình. Cho nên cả trời đất, núi sông dâng lên một âm thanh duy nhất: âm thanh của sự chia li. Vạn vật thở than ngậm ngùi đưa tiễn phần đời của chính nó.
Những phần đời như thế ra đi không thể nào cưỡng nổi tạo thành dòng chảy không ngừng phôi pha, mất mát, chia lìa. Sự thức dậy sâu xa về giá trị sống có thể đã đưa đến một cảm nhận đầy ám ảnh về thời gian trong lòng tạo vật như thế ở nhà thơ Xuân Diệu
Chính vì sự nghiệt ngã của thời gian nên Xuân Diệu mới hối hả, cuống quýt, giục giã sống nhanh, sống gấp. Làm gì trước thời gian vội vã đuổi mau? Thi sĩ đã từng trả lời câu hỏi đó bằng nhiều cách. Xuân Diệu từng ao ước có cặp hài vạn dặm để “Đi mau trốn nét, trốn màu” nhưng đó chỉ là ước mơ cổ tích.
Trong Vội vàng thi sĩ đã phát hiện ra cách chiến thắng thời gian bằng cường độ sống, khát vọng sống, tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng tất cả các giác quan, sống mãnh liệt như ngọn lửa thổi bùng. Vì thế nhà thơ giục giã phải sống nhanh sống gấp để cho kịp với thời gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại “Giục giã” chúng ta phải “Nhanh lên”, vội vàng lên để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “Mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, xuân chưa già: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Ta cũng bắt gặp một lời giục giã như thế trong một bài thơ khác: Mau lên chứ, vội vàng lên với chứEm, em ơi, tình non sắp già rồi
Với Xuân Diệu, vội vàng là phải sống bằng tất cả cường độ mãnh liệt, sống hết mình để tận hưởng cuộc sống, cuồng nhiệt đến mức muốn “ôm … riết…say…thâu…cắn” để tận hưởng cuộc sống này một cách trọn vẹn và hạnh phúc nhất.
Vội vàng mang dấu ấn riêng của một hồn thơ, một phong cách nghệ thuật. Đó là một cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, sôi nổi, mạnh mẽ, đắm say đến cuồng si. Một cái tôi. khẳng định trước đất trời, trước cuộc đời…Xuân Diệu có những ước muốn táo bạo mà chưa ai dám nghĩ tới. Thi sĩ bày tỏ ước muốn kì lạ tắt nắng, buộc gió để giữ lại màu sắc hương vị của cuộc đời.
Đó là ao ước được can dự vào quy luật của tạo hóa. Thật táo bạo, khác thường! Và rồi để khép lại bài thơ là một khát khao cháy bỏng, cuồng nhiệt hơn bất cứ ai hết: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn….-Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người Khát vọng tận hưởng cuộc sống: Ở trên, tác giả xưng tôi để đối thoại bộc bạch giãi bày với đồng loại với cuộc đời, ở dưới lại xưng ta để đối diện với sự sống trên trần gian, đối tượng cần tận hưởng.
Có nhà thơ đã nói thơ chỉ tràn ra khi cuộc sống trong tim đã ứ đầy, vì thế nhà thì đã tuyên bố: “Ta muốn ôm” Câu thơ như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang ôm bó, níu giữ, quấn quýt “Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, non tơ của nhà thơ, “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm giác sự vật, cây cối đang độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống: Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn làm dây da quấn quýt cả vườn xuân Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất(Thanh niên)Lần theo bước chân vội vàng quấn quýt với sự sống của thi nhân ta bước chân vào một thế giới đầy những hình ảnh sinh động:Ta muốn riết mây đưa và gió lượn…. cắn vào người Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn từ “ta muốn” được lặp đi lặp lại như nhịp điệu hối hả như nhịp thở gấp gáp của thi nhân. Nó đã nói lên được ham muốn thèm khát đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ.Cho chuếnh choáng mùi thơm….Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Mới đọc qua tưởng như là một câu văn xuôi tầng thường, nhưng thật ra lại rất thơ, không chỉ đã diễn tả được ý thơ ấy (thoả thuế, sung mãn) mà còn gợi cho ta ý nghĩa: thế giới này vừa hiện ra như một người tình hồng hào sức xuân mà thi nhân đắm say, vừa được bày ra như một bữa tiệc lớn với những thực đơn đây của ngon vật lạ và thi nhân chính là thực khách đang trong trạng thái khát thèm đến cháy bỏng. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt”Xanh non, biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và có hình có dáng, có hồn có sắc. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương ngọt thơm trong vườn.
Đứng trước cái hấp dẫn của mùa Xuân, cuộc sống thật không thể nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu. “Ta muốn cắn vào người”. Mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của một “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Mới từ điệu tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ đến cách đặt câu, dùng từ. Ngay cả liên từ và được dùng có vẻ thừa thãi nhưng cũng đã thể hiện được cái tôi của Xuân Diệu.
Nghĩa là làm nổi rõ được cái cảm xúc tham lam, ham hố đang trào lên mãnh liệt trong trái tim yêu đời của Xuân Diệu. Xuân Diệu – đó còn là một cảm quan nghệ thuật mới mẻ, độc đáo. Thí sĩ cảm nhận thiên nhiên bằng cái nhìn”Xanh non biếc rờn”, bằng “lăng kính tình yêu làm chuẩn mực để miêu tả thiên nhiên, sự sống. Nhà thơ đã vẽ ra một bức tranh về cuộc đời trong đó lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực để nói lên vẻ đẹp của thiên nhiên, sắc xuân của trần thế.
Trong bức tranh ấy ta bắt gặp chim yến chim oanh, bắt gặp ong, bướm và thấy cả những ánh sáng chớp hàng mi, những ánh sáng ngập tràn trong tâm hồn của kẻ tình si. Những hình ảnh thân thuộc nhưng đã được khoác lên một tấm áo mới. Xuân Diệu đã thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của “Ông Hoàng thơ tình” thông qua giọng điệu, ngôn ngữ, sáng tạo hình ảnh thơ, thủ pháp nghệ thuật… làm nên diện mạo của “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, Giọng điệu vội vàng lúc ngọt ngào, sâu lắng, lúc tha thiết, rạo rực, lúc lại bâng khuâng, xao xuyến để rồi cuối cùng là những giục giã, hối bố, vội vàng, cuống quýt.
Nhà thơ đã đưa người đọc đi trọn vẹn mọi cung bậc cảm xúc để hòa mình vào không gian riêng của thi sĩ, của thời đại, để cùng đắm say với tình yêu, với cuộc sống. Xuân Diệu sử dụng một hệ thống ngôn ngữ độc đáo, mang đậm phong cách của” nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Những tính từ mạnh được sử dụng một cách hiệu quả, thú vị “Chếnh choáng, đã đầy, no nê” để nhấn mạnh vào sắc thái hưởng thụ thỏa thuê của nhân vật trữ tình. Tất cả cộng hưởng với nhau tạo nên một một làn sóng ngôn từ và cảm xúc càng lúc càng mãnh liệt dâng lên đến cao trào. Lời thơ tuôn đi hối hả như một bản hành khúc của lòng ham sống, với Xuân Diệu cuộc đời nơi trần thế là thiên đường tuyệt diệu nhất.
Ý kiến của Xuân Diệu thật sâu sắc khi đề cập đến vấn đề cốt lõi của thơ – điều cần thiết để thơ đi vào lòng độc giả và vượt qua được quy luật trước thời gian. Vội vàng như một thứ tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Qua tâm hồn đa cảm của thi nhân, bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật tuyệt vời, thật đáng yêu và đáng sống. Tất cả được thể hiện bằng tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ tài hoa. Đó là minh chứng hùng hồn cho quan niệm về sáng tạo thi ca ở một nhà thơ lớn.
Vội vàng có nét độc đáo trong cấu tứ. Bài thơ Có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố trữ tình và chính luận, vừa bộc lộ những rung động mãnh liệt vừa lí giải về lẽ sống vội vàng, cuống quýt mà Xuân Diệu muốn gửi đến độc giả. Là cây bút tích cực tiếp thu thành tựu nghệ thuật thời trung đại
Và đặc biệt cái mới trong thơ phương Tây, Xuân Diệu Có nhiều sáng tạo trong cách tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách diễn đạt mới, hình ảnh mới. Chính điều đó đã làm nên tên tuổi của “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Đến với bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, mỗi người như được tiếp thêm một nguồn sống dồi dào, mãnh liệt, biết sống thế nào để cuộc đời ngắn ngủi của mỗi con người trên thế gian này không trôi đi một cách vô nghĩa.“Vội vàng” cũng là nơi cái tôi độc đáo, sáng tạo của thi sĩ được thể hiện rõ nét nhất và tiếng lòng của Xuân Diệu được cất lên không trực tiếp nhưng để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc
“Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” – Nhà thơ Thế Lữ đã viết như vậy trong lời Tựa cho tập Thơ của Xuân Diệu. Và cái “tấm lòng trần gian” ấy lại tiếp tục làm cho những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì !
Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân Diệu. ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy.
Nếu trong Tỏa nhị Kiều là một tấm lòng yêu thương người phải sống một cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt thì trong Vội vàng, đó cũng là một tấm lòng, một tâm hồn yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt trước cuộc sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Ngay tựa đề của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó “vội vàng” cuống quýt, ham muốn của một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Ý muốn táo bạo quá! Phải chăng hồn thơ thiết tha với đời ấy đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời, cảnh vật nên muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả với vẻ đẹp vốn có của nó?… ý muốn của Xuân Diệu lớn quá, mạnh mẽ quá như chính hồn ông vậy? “Muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại” có vẻ không ngoài ý muốn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại cái đẹp, giữ lại thời gian… Những ý muốn, những hành động của ông cứ mạnh dần lên, lớn hơn lên: “tắt nắng” rồi lại “buộc gió”; cũng như sự “lớn” của lòng ham muốn của niềm khao khát trước cuộc sống trần thế đang tràn đầy hứa hẹn. Một loạt những điệp từ “này đây”, “này đay” đặt song song như sự sắp đặt những món ăn tinh thần sẵn có, như gợi mở quyến rũ hấp dẫn đến lạ kì. Qua “cặp mắt xanh non” của nhà thơ, cuộc sống trần thế xung quanh ta bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong phú giàu có. Cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc, những cái giá trị nhất của cuộc đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng “biếc rờn” “mơn mởn”. Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu “nỗi buồn thế hệ”, nhưng không có phần chán chường, buồn nhưng ông vẫn nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp, đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong Điêu tàn có phần quay lưng lại thực tại một cách gay gắt, quyết liệt, hay chán nản, bế tắc như trong những vần thơ Huy Cận, hoặc tìm đến một nơi tiên cảnh như trong thơ Thế Lữ, thơ Xuân Diệu luôn toát lên niềm ham sống mãnh liệt. Đó là nét bao trùm của hồn thơ ông. Tất cả như gợi lên sự tận hưởng, gợi lên niềm tha thiết với tình yêu và cuộc sống. Cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai, về hạnh phúc và với Xuân Diệu, cuộc đời đầy đáng yêu, ngay cả tháng giêng cũng thật thi vị, hấp dẫn:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Một câu thơ gợi cảm thật đắt! Xuân Diệu không nói cả mùa xuân mà chỉ nói mỗi tháng giêng – tháng đẹp nhất, tháng mở đầu cho cả mùa xuân. Nói tháng giêng, nhưng Xuân Diệu gợi đến cả mùa xuân, mùa mà vạn vật căng đầy sức sống: cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa lá xanh tươi, con người trẻ trung, yêu đời, tất cả như trồi dậy một sức sống mạnh mẽ, một niềm say sưa sống, thiết tha với đời. “Tháng giêng” là tháng đẹp nhất của mùa xuân, mùa xuân là “mùa” đẹp nhất của con người, của cuộc đời. Thiên nhiên đẹp được Xuân Diệu ví với “cặp môi gần”. Đây là một câu thơ rất truyền thống lấy chuẩn mực cái đẹp là cỏ cây hoa lá, thì với Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp lại là con người. Cái hay, cái đẹp, của hồn thơ Xuân Diệu, cái rất Xuân Diệu có phần là ở đó. Khác với Nguyễn Du tả mùa xuân đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên, khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa xuân đẹp, hấp dẫn là thế mà thi sĩ chối bỏ gay gắt, quyết liệt. Đối với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chế Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách mãnh liệt, thiết tha. Bởi lẽ ông đang trong thời xuân. “Cặp mắt xanh non”, “biếc rờn” của nhà thơ nhìn vào cái gì cũng đẹp, cũng thấy thú vị, hấp dẫn: “ngon như một cặp môi gần”. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” là một câu thơ trong sáng. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần “ngon nhất” của cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh lại vừa ngụ tình – tình Xuân Diệu, khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, tha thiết cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã “say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “đã đầy” của mùa xuân. Nhưng vì lẽ thường, xuân chỉ là một trong bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời gian để mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nên xuân mang trong nó tính thời gian, mang ý nghĩa trôi chảy:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Khát khao giao cảm với đời nên Xuân Diệu nhạy cảm, khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên. Ông đang chứng kiến sự chuyển vần, thay đổi nhanh chóng của trời xuân, đang chứng kiến thời gian trôi qua, và cái hữu hạn của đời người. Cuộc đời sẽ mất đi, xuân sẽ qua đi, nhưng thời gian vẫn mãi mãi là thời gian, trường tồn cùng vũ trụ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng hấp tấp, vội vàng, giục giã để tận hưởng hết phần quý nhất, đẹp nhất của đời. Lúc nào Xuân Diệu cũng cuống quýt, vội vã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai!
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm!
“Mau đi thôi”, vì xuân của cuộc đời cũng phải qua đi, mà bi đát thay, lại không được tuần hoàn như xuân của trời đất. Cuộc đời, tuổi xuân đi qua là không bao giờ trở lại. Nhịp thơ, câu thơ như cũng đang “vội vàng” gấp gấp, nhanh nhanh, dồn dập. Lúc nào cũng cuống quýt, cũng “gấp đi em”, nên lúc nào Xuân Diệu cũng muốn níu kéo, muốn giữ lại tuổi trẻ, tình yêu. Tấm lòng Xuân Diệu lớn quá, hồn thơ mênh mông quá “nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Xuân Diệu là thế đấy!
Ta muốn ôm,
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều
Chữ “ôm” như gói trọn “Cả sự sống mới bát đầu mơn mởn”, như ghì riết, ôm tất cả để giữ lại tất cả. “Cặp mắt biếc rờn” của nhà thơ như đang khám phá hết những bí ẩn của thế giới thiên nhiên, như thấy tất cả đều căng đầy, tràn trề nhựa sống. Nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ thơ mới” (Hoài Thanh) đang làm cho những bạn đọc trẻ lòng, trẻ tuổi kinh ngạc khi thưởng thức thơ ông đó sao? Lời thơ mạnh mẽ, trần thế quá. Nhưng đó là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt, muốn được “chếnh choáng”, “no nê” trong sự tận hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như Xuân Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà, một niềm vui tột bậc khi nhà thơ buông câu kết:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Mùa xuân như một trái chín ửng hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi thúc ta hành động để đến cái đích: “cắn vào ngươi!”. Lòng ham muốn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu trước tình yêu, trước cuộc đời mãi mãi là khát vọng, là ham muốn chưa toại nguyện. Xuân đẹp quá, gần quá mà chưa với tới được.
Như thế Vội vàng không chỉ thể hiện một hồn thơ Xuân Diệu, một tấm lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thể hiện một quan niệm nhân sinh mới “chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống”. Đó là thái độ sống tích cực, sống hết mình, sống “say sưa”, sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu.
Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. Mặc dù có thể còn không ít cách cảm nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ này khiến phần đông người đọc biết yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm hạnh phúc được sống trên trái đất này, và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những năm tháng sống hoài phí. Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ chính là do lẽ đó.