logo

Biện pháp tu từ trong bài Bầm ơi

Câu hỏi: biện pháp tu từ trong bài bầm ơi

Lời giải:

Biện pháp tu từ trong bài Bầm ơi là

Điệp ngữ, so sanh, liệt kê,..

Các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về bài thơ Bầm ơi nhé!


1.Tác giả Tố Hữu

    + Tố Hữu sinh năm 1920, mất năm 2000, tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành

    + Quê quán: làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế

    + Sinh trưởng trong gia đình nho học ở Huế và yêu văn chương

    + Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động cách mạng và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân

    + Tố Hữu đảm nhiệm nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa và trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước

    - Đường thơ, đường cách mạng: con đường thơ và con đường hoạt động cách mạng của ông có sự thống nhất, không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông là một chặng đường cách mạng.

    - Đường thơ, đường cách mạng: con đường thơ và con đường hoạt động cách mạng của ông có sự thống nhất, không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông là một chặng đường cách mạng.

    + Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946)

    + Tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954)

    + Tập thơ “Gió lộng” (1955-1961)

    + Tập thơ “Ra trận” và tập “Máu và hoa”

    + Các tập thơ còn lại: thể hiện những chiêm nghiệm về cuộc đời của tác giả

- Phong cách thơ Tố Hữu:

    + Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình – chính trị

    + Thơ Tố Hữu thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

    + Thơ Tố Hữu có giọng tâm tình, ngọt ngào

    + Thơ Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà

⇒ Thơ Tố Hữu là tấm gương phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu, hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, cuộc sống hạnh phúc của con người.


2. Bài thơ Bầm ơi

Ai về thăm mẹ quê ta

Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm...


Bầm ơi có rét không bầm?

Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!


Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều

Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!

Con đi trăm núi ngàn khe

Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm

Con đi đánh giặc mười năm

Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.


Con ra tiền tuyến xa xôi

Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.

Nhớ thương con, bầm yên tâm nhé

Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.

Con đi xa cũng như gần

Anh em đồng chí quây quần là con

Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí

Bầm quý con, bầm quý anh em.


Bầm ơi, liền khúc ruột mềm

Có con có mẹ, còn thêm đồng bào

Con đi mỗi bước gian lao

Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!

Bao bà cụ từ tâm như mẹ

Yêu quý con như đẻ con ra

Cho con nào áo nào quà

Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.


Con đi, con lớn lên rồi

Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!

Nhớ con, bầm nhé đừng buồn

Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.


Mẹ già tóc bạc hoa râm

Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con...


1948


3. Hoàn cảnh ra đời bài thơ Bầm ơi!

[CHUẨN NHẤT] Biện pháp tu từ trong bài Bầm ơi

    - Xã Gia Điền là một miền quê nghèo của vùng trung du Hạ Hòa (Phú Thọ), là nơi mà người dân quê gọi mẹ là bầm, là bủ. Và ở chính mảnh đất nghĩa tình này, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Bầm ơi” nổi tiếng.

    - Vào những năm 1947, 1948, đoàn văn nghệ sỹ trong hành trình “nhận đường” đã chọn Gia Điền làm nơi dừng chân và hoạt động văn học nghệ thuật. Khi ấy, các nhà văn, nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân đã ở lại thôn Gốc Gạo xã Gia Điền. Ngôi nhà mà các nhà văn chọn để ở trọ là nhà bà cụ Nguyễn Thị Gái. Khi các văn nghệ sỹ đến ở, bủ Gái đã dọn xuống bếp để nhường giường và không gian nhà trên cho khách. Cũng từ chính ngôi mà mái cọ bình yên này, vào khoảng thời gian ấy, bài thơ Bầm ơi được “khai sinh”.

    - Để phân tích bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu được sâu sắc, các bạn cần hiểu rõ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này. Theo ghi chép của tác giả, bài thơ rút ra từ trong tập thơ Việt Bắc. Đó là vào những năm 1947 -1948, khi đoàn văn nghệ sĩ của tác giả đã chọn xã Gia Điền, của vùng trung du Hạ Hòa (Phú Thọ) làm điểm dừng chân và tổ chức các hoạt động văn học nghệ thuật. Khi đó, ông cùng một số nhà văn nhà thơ khác như Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng đã ở trọ tại ngôi nhà của bà cụ Nguyễn Thị Gái. Lúc các nghệ sĩ tới, cụ Gái đã nhường giường và không gian nhà trên cho khách, còn mình thì xuống bếp ở.

>>> Xem thêm: Cảm nhận bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu


4. Phân tích bài thơ Bầm ơi

 Để phân tích bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu được sâu sắc, các bạn cần hiểu rõ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này. Theo ghi chép của tác giả, bài thơ rút ra từ trong tập thơ Việt Bắc. Đó là vào những năm 1947 -1948, khi đoàn văn nghệ sĩ của tác giả đã chọn xã Gia Điền, của vùng trung du Hạ Hòa (Phú Thọ) làm điểm dừng chân và tổ chức các hoạt động văn học nghệ thuật. Khi đó, ông cùng một số nhà văn nhà thơ khác như Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng đã ở trọ tại ngôi nhà của bà cụ Nguyễn Thị Gái. Lúc các nghệ sĩ tới, cụ Gái đã nhường giường và không gian nhà trên cho khách, còn mình thì xuống bếp ở.

Được sống trong tình yêu thương của cụ, Tố Hữu đã nhen nhóm và cho ra đời tác phẩm “Bầm ơi” nổi tiếng. Sỡ dĩ bài thơ mang tên là “Bầm ơi” là bởi người dân quê nơi đây thường gọi mẹ là bầm, là bủ. Dù không phải là con, nhưng tình cảm mà Tố Hữu nhận được chẳng khác nào là tình cảm của người mẹ dành cho. Bởi thế, cái tên “bầm ơi” được thốt lên một cách tự nhiên như vốn có.

Mặc dù đã rời xa mảnh đất nghĩa tình ấy, nhưng trong lòng Tố Hữu vẫn mãi không quên hình ảnh người mẹ già tảo tần. Bởi thế ông mới đặt một câu hỏi tu từ và không cần lời giải đáp: “Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…”. Mà có lẽ không chỉ riêng ông mà những nghệ sĩ khác cũng sẽ nhớ, chỉ là nỗi nhớ không thành lời, chỉ là thầm nhớ trong cõi lòng.

Phân tích bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, độc giả cảm giác như đang đọc một bài cao dao, một bài hát ru con hơn là một bài thơ. Bởi nhịp thơ lúc bát da diết, vừa thân thương vừa quen thuộc:

[CHUẨN NHẤT] Biện pháp tu từ trong bài Bầm ơi(ảnh 2)

“Bầm ơi có rét không bầm?

Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!”

    - Đầu đoạn thơ là một câu hỏi đong đầy cảm xúc thương xót. Tiếng kêu “bầm ơi” vừa xót xa vừa chan chứa tình yêu. Hình ảnh bầm run run lội dưới bùn trong thời tiết mưa phùn gió núi, sao mà chân thực mà sinh động mà thương đến thế. Với tuổi tác ấy, đáng nhẽ bầm được con cái phụng dưỡng.Thế nhưng bầm bây giờ lao động vì thương con, vì chiến tranh. Bởi thế, dù cho thâm tím chân tay, ruột gan bầm lại vì lạnh nhưng bầm vẫn không sợ hãi mà tiếp tục làm việc. Dù không chứng kiến cảnh bầm làm, nhưng chỉ nghĩ thôi, tưởng tượng thôi con những thương bầm nhiều như những hạt mưa ướt thấm áo bầm.

    - Thật là một tình cảnh vừa trớ trêu vừa éo le. Thương người con 7,8  thì cũng thương người mẹ 9,10 phần. Hình ảnh tảo tần làm việc của bầm không chỉ nói riêng về cụ gái mà nó là đại diện cho vẻ đẹp đức tính hy sinh chịu thương chịu khó của những người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt là những người mẹ, người vợ trong chiến tranh.

    - Thương bầm, mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với bầm nhưng vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh nên con phải ra đi. Tuy nhiên, nhà thơ cũng như tất cả những người con đang có mẹ, có bầm, đều mong muốn tất cả các bà mẹ hãy cứ yên lòng, “Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe”. Đó là lời căn dặn tha thiết của người con dành cho mẹ. Vì người con biết rằng, dù con có như thế nào, có bao nhiêu tuổi thì đối với những người mẹ, con vẫn như một đứa trẻ. Người con hiểu, dù rằng mình đã trưởng thành, đã vượt “tram núi ngàn khe”, đã “đi đánh giặc mười năm” thì với mẹ, con vẫn còn thơ dại. Bầm vẫn tê tái khi nhớ tới con. Bầm vẫn dành cả cuộc đời, sau mươi năm để thương nhớ, lo lắng.

    - Vì thế, để bầm yên tâm hơn, nhà thơ khẳng định. Dù “con ra tiền tuyến xa xôi” với bao nhiêu gian lao vất vả, nhưng quanh con là an hem đồng đội đồng chí. Và hơn cả còn có thêm những người mẹ vệ quốc quân như bầm. Những người mẹ ấy cũng “Bao bà cụ từ tâm như mẹ/ Yêu quý con như đẻ con ra/ Cho con nào áo nào quà/ Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi”.

    - Phân tích bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, độc giả mới càng thấm thía tình cảm quân và dân của trong thời chiến. Những nơi các chiến sĩ bộ đội đi qua luôn được người dân đón tiếp nồng hậu. Họ trân quý yêu thương những người con xa quê ấy như chính con cái mình. Có lẽ chính vì sự đùm bọc đoàn kết đó mới tạo nên sức mạnh làm nên những chiến thắng vẻ vang oai hùng của dân tộc.

    - Ở đoạn thơ này, tác giả không hoàn toàn sử dụng thể thơ lục bát mà thêm vào đó những vần thơ 7 chữ. Đó là dụng ý nhằm nhấn mạnh hơn ý nghĩa tình yêu thương mà những người mẹ vệ quốc dành cho các chiến sĩ. Dù không đẻ ra nhưng họ mãi luôn dành trọn tình thương từ tâm như mẹ.

    - Những người chiến sĩ ra đi chiến đấu, thường sẽ chẳng hẹn ước ngày trở về. Vì thế họ chỉ có thể nói bao giờ hết giặc, con sẽ trở về. Và ở đây, tác giả Tố Hữu cũng vậy. Ông cùng đồng đội sẽ không thể khẳng định bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng con sẽ trở về. Ông chỉ có thể gửi gắm những tâm tư để bầm yên lòng. Đồng thời, nhà thơ cũng khẳng định chắc nịch, sẽ có ngày “giặc tan”

“Con đi, con lớn lên rồi

Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!

Nhớ con, bầm nhé đừng buồn

Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.

Mẹ già tóc bạc hoa râm

Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…”

    - Những người con ra đi, trải qua mưa bom bão đạn chắc hẳn sẽ lớn lơn, sẽ trưởng thành. Và có lúc quên mẹ. Nhưng bầm thì không. Bầm ở nhà nhìn chung quanh sẽ lại càng nhớ con da diết. Nỗi nhớ của người ở lại mới thấm thía, mới sầu bi làm sao. Thấu hiểu tâm trạng nỗi lòng của bầm nên nhà thơ khuyên bầm đừng buồn. Ông mong bầm có thể nghe thấy tiếng thì thầm của mình ở nơi phương xa.

    - Có thể nói, phân tích bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, mới thấy rõ trái tim yêu người, yêu đời của tác giả. Phải nhạy cảm lắm, phải sâu sắc lắm, nhà thơ mới có thể viết lên những dòng thơ xúc động, tuôn trào cảm xúc như vậy.

    - Với thể thơ lục bát quen thuộc, tác giả càng khiến người đọc nghẹn ngào khi nhớ về mẹ.

    - Tình cảm của người mẹ dành cho con luôn là tượng đài vĩ đại trong mọi thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Dù ở hoàn cảnh nào, dù trong hòa bình hay lúc chiến tranh, những người mẹ luôn làm mọi thứ để mang tới cho con cái những điều tốt đẹp nhất.

    - Với những người mẹ thời chiến lại càng cao đẹp hơn nữa. Họ không chỉ là hậu phương vững chắc, mà còn là nguồn động viên an ủi lớn nhất cho các chiến sĩ, bộ đội. Phân tích bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, để một lần nữa tôn vinh và ca ngợi vẻ đẹp của những người mẹ ấy. Bằng những ca từ gần gũi thân thuộc, với nhịp thơ nhẹ nhàng, tác phẩm như một bài hát ru ngọt ngào đi vào lòng người.

icon-date
Xuất bản : 01/08/2021 - Cập nhật : 10/08/2023

Tham khảo các bài học khác