logo

Bài thơ Câu cá mùa thu


Câu hỏi: Bài thơ Câu cá mùa thu lớp 11


Trả lời: 

Câu cá mùa thu- Nguyễn Khuyến

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Bài thơ Câu cá mùa thu

Ngoài ra, các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về bài thơ Câu cá mùa thu nhé!


1. Nghị luận lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu

   Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội như những người Cộng sản vẫn ra rả bấy lâu nay thì chúng ta sẽ mất nước vào tay những kẻ bên kia biên giới nhân danh chủ nghĩa xã hội đã âm thầm lấn chiếm của ta từng mét đất ở biên cương, đã trắng trợn cướp không của ta từng hải lí biển ở ngoài khơi. Và Nhà nước Việt Nam cộng sản cũng vì chủ nghĩa Xã hội thản nhiên cắt đất đai hương hỏa của cha ông ta cho nước cộng sản cùng ý thức hệ!

Yêu nước là yêu từ hơi may của đất trời Việt Nam:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

(Nguyễn Đình Thi)

   Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh (Thanh Thảo). Thì đất nước Việt Nam mãi mãi còn là của người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 –1909) là một người yêu nước như vậy.

   Yêu từ cánh bèo trên mặt ao đìu hiu mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ chức quan thời đất nước đã rơi vào tay giặc Pháp để về giữ nước bằng cách hòa vào nhân dân, đắm trong thiên nhiên đất nước. Trở về vui buồn cùng dân là khi Nguyễn Khuyến đã ở vào mùa thu cuộc đời. Soi mùa thu đời mình vào mùa thu đất nước, Nguyễn Khuyến đã để lại những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu Việt Nam, để lại chiếc bóng lồng lộng trong mùa thu Việt Nam.

   Mỗi lần nhận ra hơi may se se trong ngọn gió thu về, tôi lại bâng khuâng nhớ Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương bảng lảng chiều thu, tôi lại thấy chiếc bóng Nguyễn Khuyến đơn độc giữa những chiếc lá vàng tả tơi rụng rơi.

   Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên:

Lúc hứng uống thêm ba chén rượu

Khi buồn ngâm láo một câu thơ!

   Chí bình sinh của kẻ làm trai được cửa Khổng sân Trình giáo dục là Tu thân –Tề gia –Trị quốc – Bình thiên hạ, học hành thấu đáo đạo lí ở đời, ổn định gia thất, đỗ đạt khoa bảng rồi gánh vác việc dân việc nước. Đó là cách bộc lộ lòng trung quân ái quốc, cách mang tài năng và chí trai ra giúp ích cho đời.

 

   Con người đã dành gần ba mươi năm của cuộc đời vào việc học hành tích lũy kiến thức, rèn luyện đức độ và tài năng đâu phải để về nhà tựa gối buông cần! Con người đã vài lần thi hỏng, bốn khoa thi cử không đâu cả nhưng vẫn quyết chí lều chõng và đã đỗ cao không phải chỉ để lấy tiếng! Con người đã nhiều lần tỏ ra rất bằng lòng, rất kiêu hãnh về việc đỗ đạt và làm quan. Rất bằng lòng nên: Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ, và Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. Và rất kiêu hãnh:

Cờ biển Vua ban cho ngày trước

Khi đưa thày con rước đầu tiên .

   Thế mà con người ấy đã bỏ dở con đường hoạn lộ giữa tuổi bốn mươi tám suy nghĩ đã chín chắn, tứ thập bất hoặc, lẽ đời đã thấu đáo, đã kín mọi đường mọi nhẽ, không còn điều gì phải hoang mang, nghi ngại, cái tuổi đã gần tới ngũ thập tri thiên mệnh, tuổi thấu được mệnh trời đất, đã nhìn ra khắp thiên hạ. Tuổi trí lực đang chín, đang làm việc, suy xét tốt nhất lại rũ áo từ quan để trở về mà day dứt: Ơn Vua chưa chút báo đền / Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn Trời! Trở về với nỗi buồn, nỗi phẫn của kẻ chưa thỏa chí: Khi buồn ngâm láo một câu thơ.

   Khi Nguyễn Khuyến phải rũ áo từ quan là lúc triều đình nhà Nguyễn ươn hèn khiếp nhược đã nhục nhã kí với Pháp hòa ước Harmand đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Kí hòa ước này, một lần nữa triều đình Huế đã kí bản giao kèo đánh đổi cả sinh mạng đất nước, cả số phận dân tộc cho Pháp để giữ lấy cái ngai vàng mục ruỗng của mình. Từ đây dải đất Việt Nam ngàn lần yêu thương đã thuộc về người Pháp. Từ đấy vua quan nhà Nguyễn chỉ là một đám bù nhìn, một lũ tay sai cho bọn cướp nước, chỉ còn là một lũ hề của lịch sử, của sân khấu chính trị: Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!

Không thể trơ mặt ra mà cố đấm ăn xôi, không thể nhẫn tâm làm thứ hề ấy:

Nếu trơ như đá thì đau khổ

Còn chút lương tâm mới khó nguôi!

   Lương tâm này với cái chính trường đã thành sân khấu hề kia chẳng thể chấp nhận nhau được nữa:

Cờ đương dở cuộc không còn nước

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!

   Thôi về đi để khỏi bán mình cho danh lợi, để lánh xa chốn bon chen! Về đi để giữ trọn tấm lòng trung trinh với núi sông đất nước, giữ sạch lương tâm với đời:

Về nơi vườn rộng lòng ta thỏa

Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười!

  Cả những ai còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu nước thương dân, còn chút lòng tự trọng, thôi cũng về đi:

Thu qua bác Huyện bỏ về rồi

Nay đến ông Thương cũng tháo lui.

     Về sống với nhân dân, với bà con làng xóm, với những con người bình dị, chân chất, những người nếu có tên gọi riêng thì cũng chỉ là những chú Đáo, mẹ Mốc, ông Từ. Về sống với thiên nhiên đất nước, với ngõ trúc, ao thu. Bây giờ chỉ có những thứ quan như Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải cam tâm làm tay sai cho giặc. Làm quan như thế là đối lập với nhân dân. Trở về để hòa vào với đất nước, hòa vào với nhân dân, quan nhất thời, dân vạn đại, hòa vào với cái vạn đại, cái vĩnh cửu. Từ đây Nguyễn Khuyến gắn bó cả đời mình với những người dân Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, gửi cả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên Song thưa để mặc bóng trăng vào.

   Có trở về như thế Nguyễn Khuyến mới nhận ra được ở cảnh sắc quê hương cái riêng biệt, cái hồn vía Việt Nam. Vì thế chỉ đến Nguyễn Khuyến, cái hồn của thiên nhiên Việt Nam mới được nhận ra, mới được ghi nhận bằng ngôn ngữ nôm na của những người dân bình dị. Trước Nguyễn Khuyến, mùa thu Việt Nam đã đi vào thơ ca khá nhiều nhưng mùa thu trong thơ vịnh của những nhà thơ khoa bảng còn quá xa lạ với hiện thực thiên nhiên Việt Nam, lại càng xa lạ với lời ăn tiếng nói đầy biểu cảm của người dân Việt Nam khi mùa thu Việt Nam đầy bâng khuâng gợi cảm lại diễn tả bằng hình ảnh ước lệ vay mượn xa lạ, bằng ngôn từ khoa trương, hào nhoáng, sáo rỗng và vô hồn:

Lác đác ngô đồng

Nhạn về ải Bắc

Giếng ngọc sen tàn

Rừng phong lá rụng

Tuyết đưa hơi lạnh

Gió phẩy mưa băng

Bên hoa triện ngọc

Dưới lệ rèm châu

    Những cảnh sắc không có trong không gian nhiệt đới Việt Nam. Những ngôn từ không có trong từ vựng của người dân nước Việt chân chất, mộc mạc. Có sự trở về với dân gian của Nguyễn Khuyến, thơ ca Việt Nam mới thực sự có mùa thu Việt Nam.

   Nguyễn Khuyến có đến ba bài thơ mùa thu Việt Nam. Thu vịnh là buổi sáng chớm thu. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, vòm trời mấy tầng cao và xanh ngắt là vẫn còn không gian của mặt trời sáng chói huy hoàng từ mùa hè rớt lại. Thu điếu là buổi chiều thu tàn, không khí đìu hiu và lạnh lẽo của Thu điếu chỉ có ở cuối thu. Thu ẩm là buổi tối giữa thu, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Buổi tối mùa thu gợi cảm quá nên phải có rượu, Độ năm ba chén đã say nhè. Mỗi bài là một bức tranh khá tiêu biểu về mùa thu. Mỗi bài là một cung bậc tình cảm của một tâm hồn đa cảm trước tiết thu gợi cảm. Mỗi bài là một chiếc bóng Nguyễn Khuyến soi vào thiên nhiên đất nước. Mỗi bài có một vị trí tình cảm, một giá trị nghệ thuật riêng. Bài nào cũng hay. Bài nào cũng thấm đẫm tình yêu của Nguyễn Khuyến với đất trời quê hương. Tiêu biểu hơn cả cho mùa thu ở làng quê Việt Nam là bài Thu điếu:

    Đây là mùa thu ở làng quê miền Bắc bởi vì chỉ ở làng quê miền Bắc mới thực sự có sự khác biệt xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt. Miền Trung mùa thu là mùa mưa lũ lụt lội, nước sông cuồn cuộn phù sa và nước mưa làm đục ngầu ao hồ nên không thể có Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Ở miền Nam chỉ có hai mùa phân biệt theo mưa nắng, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô đã chang chang nắng nhưng mùa mưa cũng nắng mưa đan xen, chợt mưa, chợt nắng. Dù có mùa mưa, mùa khô nhưng mùa nào cũng nắng nóng. Mưa đã ồn ào, nắng lại càng nồng nàn, không thể có không gian sâu lắng và tĩnh lặng của Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.

    Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một không gian tâm linh, mỗi mùa một thế hiệu tình cảm. Mùa xuân náo nức. Mùa hạ khắc khoải. Mùa thu bâng khuâng. Mùa đông hiu hắt. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Bâng khuâng quá! Bâng khuâng vì không gian yên tĩnh đến hoang vắng! Không có gì khuấy động nước ao mới trong veo đến thế! Những gì là vẩn, là đục đã chìm xuống, lắng lại cả rồi! Những gì khuấy động trong lòng cũng đã chìm xuống, lắng lại cảrồi nên mới có thể Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười! Mùa thu của đất trời nhưng cũng là mùa thu của tâm hồn, mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến nhìn mùa thu của đất trời cũng là nhìn vào mùa thu của hồn mình, mùa thu của đời mình.

   Mùa thu ấy yên tĩnh lắm, thanh thản lắm! Thuyền chỉ một chiếc thôi chứ không phải là hai, ba để mà xôn xao đối đáp. Phần động cũng chỉ động ở mức thấp nhất. Mặt nước chỉ hơi gợn. Chiếc lá chỉ khẽ đưa. Những nhịp dao động này như những hơi thở cố nén xuống càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian. Người ngồi câu là một người đã từng trải, đã vượt qua mọi sự nhốn nháo trường đời, đã rũ bỏ mọi bon chen ham hố chốn danh lợi mới có thể thanh thản và điềm tĩnh đến thế, mới có thể tựa gối buông cần im phắc đã lâu chẳng được gì vẫn không bận tâm, vẫn không sốt ruột. Xem như thế đủ biết người đi câu không phải vì mục đích kiếm cá mà chỉ là để được đắm mình vào thiên nhiên đất nước, đắm mình trong tiết thu sâu lắng và say đắm.

   Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Đọc một câu đã thấy đìu hiu cô quạnh. Đọc cả bài càng thấy cô quạnh đìu hiu. Đây là mùa thu đã gần tàn, mùa đông đang gần đến. Trong tiết trời lạnh lẽo, se xắt, mọi vật như cố thu nhỏ lại còn vòm trời thì cứ rộng mãi ra. Cảnh vật hiện ra đều ở dạng đơn chiếc, đều thu vào cá thể. Một mảnh ao. Một chiếc thuyền. Một người ngồi câu lặng lẽ. Một chiếc lá khẽ rơi. Con thuyền bé tẻo teo, đến con sóng cũng chỉ hơi gợn tí. Mọi vật đều nhỏ nhoi, bé bỏng giữa cái mênh mông quạnh vắng của không gian cao rộng Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt và sâu hút Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sau mùa xuân ồn ào của tuổi thơ bầy đàn, sau mùa hạ rạo rực của tuổi thanh niên lứa đôi mới đến mùa thu yên tĩnh của ý thức cá nhân. Đó là mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến.

   Trong bài giới thiệu cho tập Thơ văn Nguyễn Khuyến của nhà xuất bản Văn Học in năm 1971, nhà thơ Xuân Diệu viết: Sao lắm ao thế? Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Xuân Diệu là người bình thơ hay nhất Việt Nam ở thời của ông. Với tất cả lòng kính trọng đối với một nhà thơ có tài và một người thẩm thơ tinh tế, tôi phải xin thưa lại rằng Xuân Diệu viết như thế là mới thấy phần vật chất, phần thể xác của câu thơ Nguyễn Khuyến, của cảnh sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. Rõ ràng ao thì phải nhỏ. Nếu lớn đã gọi là hồ. Ở ao không thể có thuyền lớn. Nhưng vấn đề không phải ở phần xác cụ thể, thô thiển đó. Trong không gian đất trời bâng khuâng cô quạnh của mùa thu, trong cõi lòng yên tĩnh, sâu lắng của Nguyễn Khuyến, dù có chiếc thuyền lớn có sức chở hàng nghìn tấn đi nữa thì nó cũng chỉ bé tẻo teo mà thôi!

  Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng của không gian mùa thu. Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng tự trong lòng người tựa gối buông cần:

Đời loạn đi về như hạc độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi!

   Cõi lòng Nguyễn Khuyến trong mùa thu đất nước, trong mùa thu cuộc đời ông đấy! Đọc câu thơ Nguyễn Khuyến viết về cõi lòng mình càng thấy bóng ông đơn độc mà lồng lộng trong mùa thu Việt Nam. Mùa thu ở làng quê Việt Nam thật đồng điệu với cõi lòng Nguyễn Khuyến. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Khuyến có cả thơ về mùa xuân, mùa hè, mùa đông nhưng thơ mùa thu của ông nhiều hơn cả, hay hơn cả. Nguyễn Khuyến là một mùa thu Việt Nam cô quạnh và se buồn. Mùa thu ấy đã trở thành cổ điển và bất tử trong văn chương Việt Nam.

   Bây giờ mỗi khi nghĩ đến Nguyễn Khuyến tôi vẫn hình dung ra một ông già ôm cần câu ngồi bó gối trên chiếc thuyền nan mỏng manh như một chiếc lá đậu chếch trên mặt nước ao lặng lẽ. Lòng thuyền sau lưng ông già không có một con cá nào, cũng chẳng hề có giỏ đựng cá, chỉ có mấy chiếc lá vàng rụng xuống đó tự bao giờ, mặt lá vẫn còn láng bóng, vàng hoe. Mấy chiếc lá vàng nhắc ta biết mùa thu đã về. Mấy chiếc lá vàng cũng cho ta biết rằng ông ngồi đó đã lâu lắm rồi. Và ông còn ngồi đó không biết đến bao giờ nữa.

   Bóng Nguyễn Khuyến cứ lồng lộng trong mọi mùa thu buồn Việt Nam ở cái thuở nhân dân chưa được làm chủ đất nước của mình, chưa được làm chủ vận mệnh của chính mình. Ông ngồi đó có u buồn nhưng thật điềm tĩnh bởi ông hiểu và tin ở đất nước này, nhân dân này. Ông là phần yên tĩnh của đất nước đang trong cơn xáo động, vật vã quyết liệt. Cõi lòng yên tĩnh đến thế, tâm hồn cao cả sáng trong đến thế Nguyễn Khuyến mới có thể chối bỏ chức quan trông coi viện Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về với Thu điếu, với Khổ nhiệt, với Hung niên. . . , trở về với cuộc sống gian nan vất vả của người dân thường để giữ cho mình vẫn còn là con người Việt Nam chân chính, được yêu đất nước của mình, được yêu nhân dân của mình và được sống giữa tình yêu của nhân dân:

Chú Đáo làng bên lên với tớ

Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.


2. Phân tích bức tranh mùa thu qua bài Câu cá mùa thu

   Trời vào thu với màu sắc thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi, não nề. Mùa thu có lẽ làm cho người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn trong những trang thơ của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – một bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

    Tiếp xúc với bài thơ điều đầu tiên cho ta ấn tượng là mật độ xuất hiện vần “eo” trong bài thơ. Chúng ta hãy đếm xem: có tất cả bảy tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo sát trong tiếng Việt thì ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị là vần “eo” trong ngôn ngữ của ta thường làm cho không gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái khuôn khổ nhỏ nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh thêm trong cái từ “lạnh lẽo” ấy. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa bởi từ “trong veo”. Khoảng trống rộng lớn làm cho chiếc thuyền câu nhỏ bé lại càng nhỏ bé thêm khi nó được tác giả thấy rằng “bé tẻo teo”. Hình ảnh “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

   Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá. “Khẽ đưa vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, làm cho ta thấy dường như tiếng rơi ấy nó không là hiện thực mà nó đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá ấy của nhà thơ làng Yên Đỗ và Trần Đăng Khoa như là ảo ảnh. Trong cái ảo ảnh đó, người đọc và cả tác giả dường như không kiểm soát kịp nó có thật hay không nữa. Bức tranh mùa thu đến đây khẽ lay động dưới nét phác họa của nhà thơ.

   Qua hai câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu không được đặt trong không gian rộng lớn như ở “Thu vịnh” mà nó bị giới hạn lại trong cái phạm vi nhỏ bé của “ao thu”. “Ao thu” hai tiếng ấy có vẻ gì đó là lạ, đặc thù. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng minh sự nhỏ bé khác thường của nó.

   Toàn bộ khung ảnh được vẽ lên như một bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng bàn tay ta vậy. Nó có một cái gì đó ngồ ngộ, dễ thương và cuốn hút lạ thường. Nó thu tóm toàn bộ không gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, vắng lặng nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt.

   Đến đây không gian được mở rộng ra, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn từ khoảng gian nhỏ bé của “ao thu” hướng về không gian lớn của bầu trời. Ở đấy nhà thơ bắt gặp:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

   Cái động từ “lơ lửng” như gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động mà ngỡ như là đứng yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí một, bồng bềnh trong bầu trời thu xanh ngắt. Cái chuyển động của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi khẽ lắc trong sóng nước mùa thu.

Trở lại câu thơ:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

   Ta thấy nó có một cái gì đó dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” xuất hiện làm cho cảnh vật nó như mơ hồ, khó mà nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta một hình dáng của sóng. Nó không ồn ào dữ dội như sóng biển mà có nó lăn tăn lan ra trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái yên ả, tĩnh mịch ấy.

   Có một câu châm ngôn cho rằng: không có một vẻ đẹp xuất sắc nào mà không mang đôi nét kì quặc. Cho nên câu thơ:

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

   Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt nhưng bức tranh mùa thu ở đây vẫn có một nét đẹp rất nên thơ, bình yên và trong sáng. Con người nhà thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

   Thế câu “Tựa gối ôm cần” thật lạ. Nó như thú nhận rằng nhà thơ đang lo nghĩ về một việc gì đó rất dữ dội, nó như đang giằng xé lấy ông. Phải chăng đó chính là nỗi buồn thời cuộc, nỗi buồn mà đến cuối đời nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được phần nào. Kết thúc bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật hơi thật mạnh của cụm từ “đâu đớp động”. Tạo ra một nét đối nghịch trong bài thơ: Cảnh vật ở trên được miêu tả là một bức tranh tĩnh lặng đến hoang vắng thì đến cuối bài thơ nó như bắt đầu tiếp nhận được sức sống, bức tranh như sinh động hẳn lên. Nhưng nó lại cũng khiến cho bài thơ im ắng vô cùng. Ba tiếng “đâu đớp động” chõi lên một chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần “eo”. Cách sử dụng nghệ thuật, dùng cái động để diễn tả cái tĩnh làm cho cảnh vật trong bài thơ càng vắng lặng hơn, nỗi buồn như bao trùm cả một khung cảnh rộng lớn.

   Bài thơ còn mang trong nó một sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một bức tranh hài hòa cân đối, có một màu sắc rất riêng của Việt Nam. Một chiếc lá vàng đâm ngang tô thêm cho bức tranh mùa thu một vẻ đẹp mới lạ.

   Đọc “Câu cá mùa thu” ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của cuộc đời này. Có cần chăng nhiều lúc lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức “Thu điếu” để thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất nước, yêu tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp này hơn nữa .


3. Cảm nhận về bài thơ Câu cá mùa thu

   Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp không nhỏ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc sắc nằm trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ.

   Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo”

   Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam bước vào trang thơ Nguyễn Khuyến thật chân thực. Mở ra trước mắt người đọc là cái ao mùa thu vùng chiêm trũng đất Bắc. Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “ao thu” ấy, trong veo chỉ sự trong vắt, trong đến mức mà người ta có thể nhìn xuống tận đáy hồ. Có lẽ, thời điểm này không còn là thời điểm chớm thu nữa mà là thời điểm giữa mùa thu hoặc cuối thu nên mới “lạnh lẽo” đến thế, chứ không se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ gợi ra một khung cảnh với ao thu trong veo, trong vắt, tĩnh lặng nhưng lại lạnh lẽo, quạnh hiu. Giữa khung cảnh của một ao thu rộng và lạnh lẽo ấy lại xuất hiện thêm một chiếc thuyền nhỏ, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo. Giữa cái rộng của ao thu đối lập với chiếc thuyền câu đã bé lại còn “bé tẹo teo” khiến cho hình ảnh chiếc thuyền trở nên nhỏ bé hơn, cô đơn hơn. Hai câu thơ mở đầu đều được nhà thơ gieo vần “eo” khiến không gian câu cá mùa thu trở nên lạnh lẽo mang một chút buồn.

   Nếu như hai câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu thật tĩnh lặng, thì ở những câu thơ tiếp theo, cảnh sắc mùa thu lần lượt hiện lên sống động hơn:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

   Câu thơ bắt đầu xuất hiện sự chuyển động của vạn vật mùa thu, dù sự lay động ấy chỉ nhẹ nhàng, khe khẽ. Người thi sĩ vẽ lên những hình ảnh “sóng biếc” chỉ “hơi gợn tí” còn “lá vàng” cũng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự chuyển động rất nhẹ nhàng trong cảnh sắc mùa thu. Hẳn là thi nhân Nguyễn Khuyến phải tinh tế lắm mới nhận ra sự khe khẽ đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi cho người đọc một màu xanh biếc trên mặt ao trong, một màu xanh rất đẹp mắt và có sắc thái biểu cảm. Không chỉ có sóng biếc mà “lá vàng” cũng được đưa vào thơ Nguyễn Khuyến một cách tinh tế. Người ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng xuống. Bởi thế mà lá vàng đã từng bước vào rất nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

   Nhà thơ tiếp tục miên man tả cảnh sắc mùa thu êm đềm khi hướng tầm mắt ra xa hơn với bầu trời thu:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

   Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một bầu trời mùa thu cao vời vợi. Bởi lẽ một bầu trời cao trong vời vợi mới có một màu xanh ngắt. Nếu bên dưới ao thu được điểm tô là màu “biếc” của sóng thu, màu vàng của “lá” thu, thì ở ý thơ này lại là một màu “xanh ngắt” bao la, ngút ngàn. Và trên bầu trời thu ấy là những “tầng mây” đang “lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả trạng thái dùng dằng, có trôi nhưng lại rất khẽ, rất thờ ơ của những đám mây. Dường như mùa thu cả không gian đất trời, cảnh sắc đều như trôi chậm lại. Nhà thơ trở lại với cảnh vật bên dưới, phía xa xa của những con ngõ nhỏ. Hình ảnh “ngõ trúc” hiện lên thật hoang vắng. Từ láy “quanh co” cùng “vắng teo” thể hiện một con ngõ ngoằn nghoèo, quanh co và không một bóng khách, gợi sự cô đơn, heo hút, man mác buồn.

  Trước khung cảnh tĩnh lặng, quạnh quẽ và lạnh lẽo của mùa thu, nhà thơ trở lại với buổi câu cá mùa thu:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

   Xung quanh cái u buồn, vắng lặng của mùa thu, thi sĩ trở lại tập trung câu cá để khiến tâm hồn thêm thư thái. Hình ảnh “tựa gối” chỉ sự chăm chú nhưng đầy nghĩ suy thật lâu trước cảnh sắc đượm buồn mùa thu. Miên man trong những dòng cảm xúc buồn, cô đơn ấy nên khiến nhà thơ giật mình khi có chú cá nhỏ “đớp động dưới chân bèo”. Câu thơ cho thấy tậm trạng suy tư của nhà thơ, cảm giác buồn, một nỗi buồn xa vắng. Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi ông về ở ẩn nơi thôn quê. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, người đọc càng hiểu hơn cái tình trong Thu điếu. Bởi bài thơ còn chất chứa cả một nỗi buồn thời thế, nhà thơ buồn cho thời buổi loạn lạc, lầm than lúc bấy giờ nhưng có ai để sẻ chia, giãi bày.

    Thu điếu là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi viết về mùa thu. Đọc bài thơ người đọc ấn tượng bởi cảnh sắc mùa thu đẹp và tĩnh lặng cùng tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, đồng thời cũng cho thấy những nỗi niềm thời đại, tình yêu nước thương dân dạt dào trong trái tim thi sĩ.

icon-date
Xuất bản : 31/08/2021 - Cập nhật : 11/09/2021