Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Ba nước Đông Dương là ba nước nào?” và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Lịch sử 10.
Ba nước Đông Dương bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, hay Chiến tranh Đông Dương (1946-1954) kéo dài từ năm 1946 đến năm 1954 giữa Pháp và đồng minh cùng lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) , Pathet Lào và Campuchia.
Cuộc chiến này ở Việt Nam là giai đoạn chống Pháp kéo dài từ 19 tháng 12 năm 1946 tới 1 tháng 8 năm 1954 còn được gọi là Chiến tranh chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Kháng chiến chín năm, 9 năm kháng chiến trường kỳ, Thời 9 năm, Hồi 9 năm. Các tài liệu nghiên cứu, sách báo ở nước ngoài phần lớn gọi là Chiến tranh Việt-Pháp hoặc Chiến tranh Đông Dương.
Chiến dịch Biên giới bắt đầu ngày 16 tháng 9 năm 1950, Dưới sự uy hiếp của quân Việt Minh và sự hoang mang của bộ chỉ huy Pháp, quân đội Pháo không đủ sức để tổ chức những cuộc phản công đủ mạnh để lấy lại những vùng đã mất. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1950, quân Pháp phải rút bỏ hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như Thất Khê, Na Sầm, Đồng Lập, Lạng Sơn. Toàn bộ vùng Đông Bắc tiếp giáp với Trung Quốc đã được mở toang, quân đội Nhân Dân Việt nam có thể nhận được những viện trợ quân sự từ Nga và Trung Quốc dễ dàng hơn.
Tháng 7 năm 1953, chỉ huy mới của Pháp, tướng Henri Navarre, đến Đông Dương. Được sự hứa hẹn về việc Mỹ tăng viện trợ quân sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng phản công mà báo chí Pháp và Mỹ gọi là “Kế hoạch Navarre”
Tháng 11 năm 1953, Navarre mở cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ – Khu vực mà ông cho rằng có vị trí chiến lược chặn giữa tuyến đường chính của Quân đội Nhân dân Việt Nam sang Lào. Ngày 13 tháng 3 năm 1954 nổ ra trận đánh lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương là trận Điện Biên Phủ, Pháp đã để mất căn cứ và tổn thất 16.200 quân và gần như không còn đủ sức để phục hồi.
Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Kết thúc chiến tranh Đông Dương. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương.
Chiến tranh Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam War), còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là một cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Đây là giai đoạn thứ hai của cuộc Chiến tranh Đông Dương giữa hai bên: một bên là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các quốc gia đồng minh theo chủ nghĩa chống cộng bao gồm: Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia - sau này là Cộng hòa Khmer (tham chiến trực tiếp trên mặt trận quân sự) cùng nhiều nước khác (trên mặt trận ngoại giao), bên còn lại là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam/Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo cùng các chính thể đồng minh Pathet Lào, Campuchia Dân chủ với sự ủng hộ và viện trợ từ Khối các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.
Chiến tranh Việt Nam kéo dài tới gần 20 năm, diễn ra không chỉ tại chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn ảnh hưởng, lan rộng lên cả miền Bắc (các chiến dịch không kích lần 1, 2 và 3 của Không quân Hoa Kỳ) đồng thời có liên quan trực tiếp tới Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia - cũng với sự can thiệp quân sự từ phía Hoa Kỳ (chấm dứt vào năm 1973). Cuộc chiến này chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngay trước thời điểm đó, toàn bộ công dân, nhân viên ngoại giao, quân sự và dân sự của Hoa Kỳ cùng các nước đồng minh còn duy trì sự hiện diện sau năm 1973 cũng di tản hết khỏi miền Nam Việt Nam do sự kiện này.
Sau khi tái thống nhất Việt Nam vào năm 1975, chính quyền mới tiến hành việc cải tạo kinh tế, văn hóa, thay đổi hệ thống giáo dục, xây dựng bao cấp, quốc hữu hóa tư sản, xóa bỏ tư hữu cũng như kinh tế thị trường ở miền Nam, tổ chức học tập cải tạo, rà soát lý lịch đối với tất cả những người từng phục vụ trong chính quyền cũ cùng gia đình của họ. Kết thúc chiến tranh, sự ảnh hưởng ý thức hệ của Hoa Kỳ tại Đông Dương hoàn toàn bị loại bỏ, các đảng cộng sản lên nắm chính quyền tại miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Hàng triệu người ở 3 nước Đông Dương sau đó đã di cư bằng nhiều hình thức đến các nước khác trong cuộc khủng hoảng tị nạn do xung đột quân sự tiếp diễn. Các di chứng của chiến tranh để lại như bom mìn chưa nổ, chất độc màu da cam, Hội chứng Việt Nam, chia rẽ tư tưởng, suy thoái kinh tế,... vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới các bên trong hàng chục năm về sau.
Trong thời gian diễn ra và sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Đông Dương tuy đã bị loại bỏ nhưng sự chia rẽ Trung-Xô tái trỗi dậy kết hợp cùng mâu thuẫn giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với đồng minh Campuchia trong chính quyền Campuchia lưu vong tại Bắc Kinh (Trung Quốc) và chính quyền Campuchia Dân chủ sau đó của Khmer Đỏ (được Trung Quốc và sau này có thêm Hoa Kỳ, Anh Quốc, cùng Thái Lan ủng hộ, hậu thuẫn, viện trợ ) đã dẫn đến xung đột biên giới cùng Chiến tranh Campuchia–Việt Nam. Sau đó, Quân đội Trung Quốc (được sự ủng hộ, thỏa hiệp và hỗ trợ bởi Hoa Kỳ) đã trực tiếp mở các cuộc tấn công vũ trang với quy mô lớn vào lãnh thổ Việt Nam trong Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 - gây ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba (1978-1991), không chỉ ảnh hưởng đến khu vực Đông Dương mà còn lan rộng sang cả Thái Lan.
Chiến tranh Việt Nam giữ kỷ lục là cuộc chiến có số lượng bom đạn được thả nhiều nhất trong lịch sử, với 7.662.000 tấn chất nổ đã được Không quân Mỹ sử dụng, nhiều gấp 3,7 lần so với con số 2.150.000 tấn mà tất cả các nước sử dụng trong Thế chiến thứ hai. Một nguồn khác thống kê được rằng lượng bom đạn mà quân đội Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh Việt Nam là vào khoảng 15,35 triệu tấn, trong đó có 7,85 triệu tấn thả từ máy bay và 7,5 triệu tấn khác sử dụng trên mặt đất (đạn pháo, bộc phá, các loại mìn,...).
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Năm 1978, ông thôi chức Bí thư quân ủy Trung ương, Lê Duẩn trở thành Bí thư và Văn Tiến Dũng làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.
Đất nước mới vừa thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã bị quân Khmer Đỏ vượt biên giới Tây Nam tiến vào Việt Nam và xung đột với Việt Nam trong một thời gian dài, Khmer Đỏ được hậu thuẫn từ Trung Quốc và sau đó có Thái Lan một phần gây xung đột biên giới với Việt Nam từ năm 1975 mãi đến năm 1990 mới chấm dứt, đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 khiến chủ tịch nước lúc đó là Tôn Đức Thắng phải ký sắc lệnh Tổng động viên Quân đội toàn quốc, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Phó tổng tư lệnh ông lại một lần nữa chỉ huy quân đội toàn quốc chiến đấu.Sau khi cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc kết thúc, không có thay đổi lãnh thổ đáng kể giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 2 năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng[59] nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng là một trong những lãnh đạo quân đội lâu năm nhất cùng thời với Võ Nguyên Giáp.[60] Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó).